Q1 - Chương 7

Quyển 1: Mười năm đèn sách

Chương 7

Sư Tình thường xuyên nhận việc quét sân chùa cũng nhìn thấy hàng chữ trải đầy sân. Thầy quá đỗi bất ngờ, không tin nổi mà hỏi cụ trụ trì:

- Lê biết buông rồi ư thưa thầy?

Buông, có nghĩa là khi đã viết quen tay, học trò không cần tô theo khuôn chữ, không nhìn chữ mẫu mà bắt chước, chỉ dựa vào trí nhớ mà hoàn thiện từng nét chữ. Lê mới học chữ chưa được mấy ngày, mới chỉ khoảng một tháng là cùng, vậy mà đã biết viết buông hàng dài như vậy rồi. Hơn nữa, cũng không phải là kiểu tập viết lặp đi lặp lại một chữ, mà là hẳn mấy câu.

Sư Tình lẩm nhẩm đọc, càng đọc càng thấy quen quen. Lẽ nào thằng Lê còn chép lại thơ? Nó mới biết được bao chữ mà đã biết chép thơ rồi?

"Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình

Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh

Cá trung tư vị vô nhân thức

Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh" [1]

[1] Bài thơ "Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn" (Tặng nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong) của vua Trần Thái Tông

Chữ Hán:

寄清風庵僧德山

風打松關月照亭,

心期風景共凄清。

個中滋味無人識,

付與山僧樂到明。

Phiên âm Hán Việt:

Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn

Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình,

Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh.

Cá trung tư vị vô nhân thức,

Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh.

Dịch nghĩa:

Tặng nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong

Gió đập cổng thông, trăng sáng trước sân,

Lòng hẹn với phong cảnh cùng trong sạch lặng lẽ.

Bao nhiêu thú vị trong đó không ai hay,

Mặc cho nhà sư trong núi vui đến sáng.

Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập 2), NXB Khoa học Xã hội

Bản dịch lấy từ thivien

Sư Tình chắp tay niệm:

- A Di Đà Phật.

Hèn gì cụ trụ trì cứ bảo nó có một bụng thi thư. Thực là có một bụng nhưng bản thân nó lại cứ thích giấu nhẹm đi thôi. Sư Tình chắc chắn trong chùa không ai đọc thơ cho nó biết bởi các sư đều không phải người đọc sách thực sự, tuy rằng vài ba chữ nghĩa trong đầu cũng đủ để họ đọc kinh. Các sư tụng niệm kinh kệ nhiều như thế, thằng Lê ở lì trong chùa bốn năm mà mãi chẳng nhớ nổi, ấy thế lại chép được nguyên một bài thơ sau một tháng học chữ.

Chẳng lẽ cụ trụ trì nói đúng, thằng Lê có số làm ông Nghè thật?

Sư Tình đọc đi đọc lại bài thơ, sực nhớ ra:

- Là thơ của vua Thái Tông thời Trần?

Không biết Lê biết từ đâu nữa. Sư Tình đoán chắc hẳn thằng Lê chạy loanh quanh trong làng, tình cờ nghe đám trẻ con lanh lảnh đọc, nghe ông Đồ già giảng dạy cũng nên.

- Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn. - Cụ trụ trì gật đầu đọc tên bài thơ, cũng có đôi chút không ngờ tới. - Ta chỉ thấy sao Văn Khúc chiếu nó, không nghĩ rằng...

Không nghĩ rằng chỉ là lời bâng quơ mà lại thực sự ứng lên người thằng bé. Trong ngôi chùa này, chỉ mình sư Tâm tin sái cổ lời của cụ trụ trì, đến ngay cả cụ cũng không dám thực sự đặt niềm tin vào nghiệp khoa cử của Lê làm gì. Tiến sĩ thì khoa nào cũng có, nhưng mỗi khoa chỉ lấy có bốn mươi tới sáu mươi người, trong khi số người đọc sách trên khắp Đại Việt lại là bao nhiêu? Mà trong số bốn mươi tới sáu mươi người ấy, có bao nhiêu người còn trẻ tuổi, lại có bao nhiêu người đã bạc đầu?

Bể học vô biên, con người học mãi học mãi cũng không hết được. Khoa cử không phải điểm đến cuối cùng của người đọc sách, mà là một khởi đầu khác cho con đường dài hơn, nhiều chông gai hơn thôi.

- Ta lại thực chẳng mong Lê có thể thành ông Nghè. Giờ xem ra không làm không được.

Cụ trụ trì thở dài, trong lòng chất chứa những sự vui buồn khác nhau. Người tài bậc này, thể nào quan huyện cũng sẽ tìm cách cho nó vào trường thi Hương thôi. Thi Hương rồi, dẫu Lê có muốn đi lính thì vẫn chỉ là mơ mộng chuyện viển vông.

Sư Tình không hài lòng lắm:

- Chẳng phải thầy cứ thích thúc nó đi học ư?

Cụ trụ trì thừa nhận:

- Ta chỉ mong nó lớn lên có kiến thức, có cái nghề để tự nuôi sống bản thân. Chứ cái danh Tiến sĩ ấy à, với tính nết của nó, phải học ngày học đêm tới khi tóc điểm bạc mới đạt được đấy.

Mà quan trọng là nó có thích học đâu. Nó có số làm chứ nào có lòng làm, nó đã không muốn thì sẽ không ai ép nó cả. Cụ trụ trì không nói thêm, lòng thầm mong trời có thương thì chiếu cố nó, để dù Lê có chọn con đường nào đường nấy đều nở đầy hoa.

Hoa lê trắng ngần, tinh khôi và đẹp đẽ như cái tên của nó vậy.

***

Tùng rất giỏi Văn, tự nó biết. Nếu nó không giỏi Văn, nó đã không vào được chuyên Văn của Chu Văn An, không lọt được vào đội tuyển học sinh giỏi, không đứng trong nhóm top đầu học sinh giỏi trong trường hai năm liên tiếp. Không chỉ thế, Tùng còn biết mình có trí nhớ tuyệt đỉnh. Tuy không đến nỗi vừa đọc đã nhớ, nhưng một khi đã nhớ thì nhớ tới hết đời.

Ban đầu nó không định hướng thi chuyên Văn, mẹ nó muốn nó học chuyên Toán. Phụ huynh châu Á cả, ai mà không muốn con mình giỏi Toán nhất. Với họ, giỏi Toán mới là bước đầu định hình được một đứa trẻ giỏi giang. Tùng học Toán cũng được, không 8 thì 9, có thể tính nhẩm được những bài toán cơ bản, làm được đại khái vài bài Toán nâng cao.

Nhưng mẹ nó vẫn không hài lòng.

Điểm 9 thì còn được tính là khá, chứ điểm 8 là cái thá gì? Bao lần nó hớn hở mang điểm 8 môn Toán về, mẹ nó toàn mặt nặng mày nhẹ. Hôm nào dễ tính thì mắng nó vài câu đau thấu tim gan. Hôm nào nóng tính vì trên cơ quan bị sếp chửi, mẹ nó không dùng đến đòn roi là không chịu được.

Tùng không ghét môn Toán, nó chỉ tạm dừng ở khoảng không ưa môn Toán thôi. Vì không ưa, cũng vì phản ứng từ tâm lý nổi loạn tuổi dậy thì, nó tự ý đăng ký chuyên Văn mà không buồn hỏi ý kiến người lớn. Nó đỗ chuyên Văn, mẹ nó ngất xỉu ngay tại trận. Ở cái nhà đó, ngoài bố nó ra, không ai mừng vì nó đỗ chuyên cả.

Chuyên gì không chuyên, con trai ai lại đi chuyên Văn bao giờ? Thà nó đổi chuyên Lý, chuyên Hóa hay chuyên Sinh, chuyên Tin nghe còn có tương lai, còn ra dáng học sinh giỏi, con nhà người ta hơn chuyên Văn nhiều.

Tùng mặc kệ lời xì xào bàn tán của họ hàng và gia đình. Nó lại lao đầu vào học hành, học một mình để quên nỗi cô đơn, học nữa học mãi để thành tích của mình luôn tiến về phía trước.

Ngoài tác phẩm văn học trong sách giáo khoa, thi thoảng Tùng sẽ đi tìm kiếm những tác phẩm bên ngoài chương trình học. Văn học là cả một nghệ thuật bằng ngôn từ, lúc ấy nó còn nghĩ tác phẩm trong sách giáo khoa không đủ cho nó cảm nhận nữa là. Nó tìm tập thơ hiện đại, truyện ngắn, tiểu thuyết, tuyển tập của các tác giả nổi tiếng thế kỷ XX. Văn học cách mạng trước 1945, sau 1945 và sau thống nhất có phong cách khác nhau, nghệ thuật ngôn từ cũng đa dạng không kém. Nhưng Tùng vẫn chưa thỏa mãn.

Và rồi nó tìm đến văn học trung đại. Văn học trung đại đa phần là thơ, ngoài ra có một vài thể loại đặc biệt khác như hịch, chiếu, biểu, cáo. Những tác phẩm tiêu biểu nhất thì ai ai cũng biết rồi, nó còn thuộc nằm lòng để nếu cần còn trích dẫn. Truyện Kiều có bao nhiêu câu thì từng ấy câu nó thuộc làu hết. Nó muốn thứ gì đó mới mẻ hơn, ít người biết hơn mà vẫn có được điều nó muốn tìm.

Nó ngẫu nhiên tìm được tuyển tập thơ văn thời Lý - Trần. Nó chỉ đọc bản phiên âm Hán Việt và phần dịch nghĩa, sau đó tự cảm nhận. Tự cảm nhận văn học có cái thú riêng của nó, bởi mỗi người một suy nghĩ, một cảm nhận riêng. Có đôi khi, Tùng chỉ đọc một bài thơ bất kỳ thôi mà như đắm mình vào thế giới con chữ ấy, thoát ly khỏi bể khổ nó đang phải chịu vậy.

Trời sáng bảnh mắt, Tùng trơ mắt đọc bài thơ mình chép trên đất. Nó đã làm cái gì thế này! Đêm hôm chắc não nó bị teo thành hạt nho, tập viết chữ còn chưa đủ đã lại đi chép thơ của Trần Thái Tông rồi!

Khoan nói nó có xuyên về lịch sử hay không, nếu đây không phải là triều đại lịch sử có thật thì hành động của nó khác nào bật tool hack làm quân ăn cắp, khác nào nữ chính truyện xuyên không mất não đời đầu đâu! Tùng không muốn mất não, nó cần não để quay về nhà tiếp tục làm học sinh chuyên Văn.

Tùng lặng lẽ gào thét. Tùng lăn lê bò toài trong ảo tưởng. Nó đứng đờ ra như tượng, quyết định nếu có người hỏi nó ai viết bài này, nó sẽ bảo nó mơ thấy một vị vua kể cho nó nghe. Còn vì sao nó biết được nhiều chữ như vậy, chịu thôi, ai bảo cái đầu nó thông minh lại còn dung lượng lớn cơ chứ. Ngay từ ban đầu nó đã không chơi trò tô theo khuôn chữ mẫu như bọn trẻ con mà nhảy sang bước hai là bắt chước viết theo rồi. Bắt chước được hai lần, nó bỏ chữ mẫu ra tự viết luôn cho dễ nhớ.

Thế là nhớ được cả đống thôi. Không phải Tùng tự mãn hay gì, chuyện nó giỏi là thật mà lị.

Đương khi Tùng ưỡn ngực tự khen bản thân, quan huyện đã đi đến cạnh nó rồi. Ông đọc bài thơ được viết trên đất, nén nỗi bất ngờ xuống, vẫn giữ vẻ bình tĩnh xen lẫn chút vui mừng mà hỏi nó:

- Bài "Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn" của Thái Tông thời Trần à? Trò đọc được ở đâu vậy?

Tùng sốc đến điếng người, suy nghĩ trong đầu loạn thành một mớ bòng bong. Nó đã nghĩ ra phương pháp đối phó với việc nếu đây là thế giới của triều đại không có thật mà tạm bỏ qua tình huống mình xuyên về quá khứ mấy trăm năm trước. Nó đinh ninh mấy chuyện xuyên sử chắc gì đã rơi trúng đầu mình. Cuối cùng, nó lại thật sự xuyên về lịch sử giống với anh họ nó!

Nó quyết định rủa anh nó đời đời không có bồ! Đang yên đang lành kể cho nó chuyện xuyên không, giờ nó xuyên sử thật luôn rồi này! Nước mắt của Tùng lại chảy thành sông Hồng, nó muốn về nhà, nó không muốn làm bé bươm bướm thay đổi toàn bộ lịch sử đâu...

Tùng nhanh chóng bình tĩnh lại, cẩn thận suy nghĩ. Chuyện lỡ cũng lỡ rồi, trước mắt nó cần biết đây là triều đại nào, sau đó tùy cơ ứng biến rồi tiếp tục làm một thằng vô dụng hết ăn lại nằm. Tốt hơn hết là nó không làm gì cả, nó mà lỡ làm cái gì thay đổi lịch sử chút xíu thôi thì nó thành tội đồ của Tổ quốc luôn mất.

Nếu đây là triều đại có thật trong lịch sử, lại nhắc tới vua Trần Thái Tông, vậy rất có thể đây là triều đại sau nhà Trần. Là nhà Hồ ư? Không, chắc chắn không. Nhà Hồ cướp ngôi lên nắm quyền khi nhà Trần sụp đổ, người dân không ủng hộ nhà Hồ, dù có là làng quê yên bình nhất thì cũng phải khá nghèo, còn chưa kể luôn có quân Minh rình mò nữa.

Hậu Lê? Tây Sơn? Hay nhà Nguyễn? Tùng nhìn quần áo của quan huyện, lặng lẽ gạch phương án nhà Nguyễn đi. Dù sao cũng là triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, thời trang của nhà Nguyễn được phổ biến rộng rãi hơn những triều đại khác gấp nhiều lần. Tùng quá quen với cảnh quan huyện ngày xưa mặc áo ngũ thân tay chẽn, đầu đội khăn xếp, chứ không phải áo đoàn lĩnh có tay áo rộng thùng thình và cái mũ Ô Sa như kia.

Vậy thì chỉ có Hậu Lê và Tây Sơn thôi!

Tùng lặng lẽ nghiêng đầu nhìn xuống chân núi. Làng này ruộng lúa xanh rì, thóc nằm đầy sân thế kia, khá tương ứng với câu thơ:

"Thời vua Thái Tổ Thái Tông

Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn."

Đây là câu thơ tả cảnh thanh bình yên vui của Đại Việt dưới sự cai trị của hai vị vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông của nhà Hậu Lê. Đầu Hậu Lê, đất nước hòa bình, người dân ấm no, hạnh phúc tới mức mà không thiếu cả cái ăn cái mặc, ruộng nào cũng trổ đầy bông, trâu ăn còn không xuể, được coi là một trong những thời điểm Đại Việt thịnh trị nhất trong lịch sử.

Không lẽ nó may mắn đến nhường này? Tùng ra quyết định, lần này nó chúc anh họ cưới luôn tình đầu. Được làm thằng vô dụng ở thời điểm đất nước yên bình thì còn gì bằng?

Nó háo hức hỏi quan huyện:

- Thưa thầy, trò có thể hỏi năm nay là năm bao nhiêu không ạ?

Tùng không trả lời câu hỏi của quan huyện, nói trắng ra là nó lơ luôn. Hiện tại, nó chỉ muốn xác định suy đoán của mình thôi. Dù rằng nó không chuyên Sử, không biết được niên hiệu của bao nhiêu vị vua.

Quan huyện thoáng khựng lại, như không hiểu sao đột nhiên nó lại hỏi như vậy. Nhưng rồi ông vẫn trả lời:

- Tân Mão, niên hiệu Hồng Đức [2] năm thứ hai. [3]

[2] Hồng Đức: Niên hiệu của vua Lê Thánh Tông từ năm 1470 đến năm 1497

[3] Năm 1471

Tùng trố mắt đứng chết trân. Niềm hạnh phúc đến quá bất ngờ, đập thẳng vào đầu nó làm nó mơ màng. Hồng Đức? Hồng Đức! Là "Hồng Đức thịnh trị" như trên mạng nói đó ư? Đây còn không phải là niên hiệu của Lê Thánh Tông triều Hậu Lê đó sao? Idol Lê Tư Thành của thằng học lớp chuyên Sử bên cạnh!

Tùng rất muốn đại diện con cháu Việt Nam hiện đại hát vang câu "Từ nơi đồng xanh thơm hương lúa", lại còn phải là kiểu vừa hát vừa nhảy flashmob để thể hiện sự phấn khích của mình.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro