Nước lặng
Title: Nước Lặng, Trăng Êm
Disclaimer: Không ai thuộc về tớ. Nhưng câu chuyện thì có.
Author: Yuan
Pairings: Yeongyu
Note: Bối cảnh Miền Nam Việt Nam xưa, có sử dụng nhiều phương ngữ Nam Bộ.
1.
Gió sớm miền biển ràn rạt thổi qua rặng dừa nước, cuốn theo cái tanh nồng của sóng biển hoà lẫn trong sương mù mờ mịt.
Phía gần bãi cát ướt là một mái chòi lá nhỏ bé lọt thỏm giữa những con thuyền gỗ nằm ngả nghiêng với từng vết thời gian hằn rõ trên lớp sơn bong tróc.
Phạm Khuê lom khom kéo mớ lưới cuối cùng lên khỏi mặt nước. Đôi tay nó gầy guộc, chai sạn vì sương gió biển khơi đang thoăn thoắt gỡ từng con cá mắc lưới. Nó hất mái tóc ướt sũng nước biển ra sau, ánh mắt sắc lẻm quét một vòng qua mặt biển đang vỗ nhè nhẹ, bữa nay kéo được ít cá hơn hôm qua, ngó bộ không đủ số lượng dặn trước để đem qua cho thím Tám bên chợ, vừa gỡ cá nó vừa suy tính coi lát nữa còn thưa thốt với người ta làm sao để đỡ bị cằn nhằn.
Đang loay hoay thì bất chợt Khuê khựng lại.
Cách chỗ nó đang kéo lưới một khoảng không xa lắm, giữa làn nước độc một màu xanh tái là chiếc thuyền thúng trôi lập lờ, lắc lư như lá tre giữa dòng. Ban đầu, nó còn tưởng là thuyền lạ, hoặc cùng lắm là bỏ hoang, nhưng khi nheo mắt nhìn kỹ lại, nó mới thấy một thân người đang nằm sõng soài bên trong.
Người đó không động đậy, áo quần tả tơi, có chỗ còn vương máu khô.
Phạm Khuê buông vội mớ cá còn chưa gỡ xong xuống cát, chạy nhanh tới mé nước. Nó lội ra, hai tay nắm lấy mép của chiếc thuyền thúng rồi nghiến răng dùng hết sức kéo vào bờ. Lúc này, nó mới thấy rõ gương mặt của kẻ đang nằm trong đó - mặt mũi bầm tím, môi tái nhợt, hơi thở yếu ớt như đèn dầu sắp cạn. Chân kẻ nọ dường như đã bị đánh gãy hết một bên, giữa lớp quần áo rách nát là da thịt trắng tái chỗ nào cũng bị đánh cho tươm máu. Nhưng điều làm Khuê giật mình nhất chính là gương mặt nửa sống nửa chết kia.. nó đã từng nhìn thấy một lần rồi.
Ký ức cuộn trào từng đợt tràn về như sóng dữ.
Mấy năm trước, Phạm Khuê cũng đã từng quỳ trên nền gạch hoa lạnh lẽo trong gian nhà lộng lẫy của một phú hộ đất Rạch Giá.
Khi đó, nó hãy còn là một đứa ở đợ còm cõi, áo quần vá chằng vá đụp, lưng cúi rạp dưới chân bọn chủ để hầu hạ cho một buổi tụ họp xa hoa. Thế rồi thằng Tèo - cũng là kẻ hầu như nó vì run tay nên lỡ làm rớt cái chén xuống chân công tử Hậu, tức là con trai của phú hộ giàu nhứt nhì cái xứ này, thằng nhóc run lẩy bẩy chưa kịp cất tiếng xin tha đã bị tên đó túm cổ xách lên như một con gà.
Công tử Hậu là đứa nổi tiếng hung hăng, chỉ cần không vừa mắt là nện người không nương tay. Hắn vung roi lên, định quật thằng Tèo mấy cái thì Khuê đã nhào ra, hai tay dang rộng che trước mặt bạn. Lúc bấy giờ nó chỉ nghĩ đơn giản là không thể để bạn mình cứ vậy mà ăn đòn được, lúc chiều thằng Tèo còn mới hầm hập sốt mà vẫn phải nai lưng ra hầu chủ thì làm sao tránh được sai sót.
"Xin cậu tha cho nó! Nó ốm yếu lắm, chịu không nổi đâu cậu ơi!!"
"H-hay là để con chịu thay nó được không cậu?"
Công tử Hậu nghe xong thì nhướn mày rồi phá lên cười.
"Mày chịu thay nó hả? Được thôi."
Nói rồi, chiếc roi liền ngay lập tức quất xuống.
Và Phạm Khuê đã chịu đủ. Roi da đập xuống lưng nó thành từng lằn đau rát, tiếng vun vút sắc lẹm vang vọng trong đêm, giữa tiếng cười giỡn hớt của đám công tử nhà giàu. Đau đớn là vậy nhưng nó không khóc, chỉ nghiến răng chịu đựng mãi cho đến khi một giọng nói không vui không buồn cất lên:
"Thôi đi."
Giữa gian nhà rực rỡ ánh đèn, một thanh niên trẻ tuổi bước vào, sóng đôi bên cạnh chắc là tiểu thơ của gia đình danh giá nào đó. Người đi vào mặc sơ mi kiểu Tây trắng tinh thẳng tắp, lưng thắt dây nịt đàng hoàng, tóc tai chải gọn, đường nét sắc sảo như được tạc. Khuê biết đây là cậu hai Nhiên Thuân - người có quyền thế nhất trong hội. Bằng chứng là hắn chỉ khẽ phất tay thôi đã đủ khiến công tử Hậu phải miễn cưỡng hạ roi.
Phạm Khuê khi đó gục mặt xuống đất, chỉ dám len lén nhìn lên, nhưng nó đã kịp ghi nhớ gương mặt và giọng nói ấy. Một giọng nói quyền uy, xa vời và hời hợt, tựa như đang tiện tay cưu mang một con chó hay con mèo chứ chẳng hề bận tâm đến một kẻ tôi tớ như nó.
Nhiên Thuân chỉ buông một câu nhẹ hẫng hàm ý đầy chê trách:
"Bắt chẹt kẻ yếu thì có hay ho gì."
Nói rồi hắn quay đi cùng người tình kiều diễm của mình, Khuê nằm thoi thóp sau trận đòn nhưng may mắn vẫn còn giữ lại được hơi thở.
Kể từ đó, bọn họ chẳng còn gặp lại, tựa như hai đường thẳng song song không có điểm giao nhau.
Thế rồi đến hôm nay, người từng đứng trên cao không thể với tới kia giờ lại nằm trước mặt nó, giữa con nước lênh đênh, trông không khác gì một kẻ cùng đường.
Phạm Khuê siết chặt nắm tay, rồi thở ra một hơi thật dài. Nó cúi xuống, cẩn thận nhấc Nhiên Thuân lên khỏi chiếc thuyền thúng, rồi cõng hắn về căn chòi lá của mình.
Nợ này coi như huề đi vậy.
————
Trong căn chòi nhỏ ven biển, mùi thuốc sắc nồng nàn quện trong không khí, hoà cùng vị mặn mòi của gió biển lùa vào qua khe hở trên mái lá. Nhiên Thuân nằm trên chiếc chõng tre cũ kỹ, người được phủ một chiếc mền mỏng nhưng vẫn không tài nào xua nổi cái lạnh len lỏi từ trong xương tủy.
Hắn tỉnh lại đã hai ngày trước.
Lần đầu mở mắt, thứ hắn nhìn thấy là trần chòi tối tăm chứ không phải gian nhà rộng lớn quen thuộc ở Gia Định. Không có gia nhân hầu hạ, không còn cha mẹ, không còn địa vị, không còn gì. Hắn nhớ lúc đó mình vừa đau vừa lạnh, cả người ê ẩm bị đập như nát vụn, nhưng cái đau trên thân thể không thấm vào đâu so với cơn quặn thắt trong lòng.
Hắn mất tất cả rồi.
Hắn không còn gì cả.
.
.
Gia đình Hội đồng Thôi vốn là một trong những tay điền chủ có thế lực nhất ở Gia Định, sở hữu nhiều ruộng đất, đồn điền lúa gạo và có mối quan hệ rộng rãi với giới chức Nam Kỳ.
Cậu hai Thuân và em trai hắn là Tú Bân đều được ba má cho học hành bài bản, có người hầu kẻ hạ, đi tới đâu cũng có kẻ cúi đầu xu nịnh. Cả tuổi thơ của hắn chưa từng biết đến hai chữ khốn khó là gì.
Vậy mà một ngày kia, tất cả bỗng sụp đổ. Chính vì quyền thế quá lớn nên gia đình hắn đã trở thành cái gai trong mắt người khác.
Tin dữ đến vào một buổi chiều oi bức. Cha của Nhiên Thuân, tức ông Hội đồng Thôi bị quan trên triệu đến dinh đốc phủ để tra hỏi. Hắn không nghĩ đó là chuyện gì to tát, vì cha hắn từ lâu đã có quan hệ tốt với nhiều chức sắc trong vùng, có khi đây chỉ là một buổi gặp mặt xã giao. Ấy thế mà lần này lại khác.
Người ta vu cho cha hắn tội cấu kết với bọn phản loạn. Một lời buộc tội hiểm ác như vậy vào giữa thời điểm này đủ để khiến cả một dòng họ phải thân bại danh liệt. Nhiên Thuân còn nhớ như in đêm hôm đó, cái đêm mà lính tráng tràn vào nhà, lục tung từng gian phòng để tìm kiếm bằng cớ, bọn chúng đập phá đồ đạc rồi trói gô cha hắn đi giữa tiếng la hét của mẹ cùng sự ngăn cản trong bất lực của Tú Bân và tụi gia nhân.
Hắn cũng đã lao vào cản, nhưng rồi nhanh chóng bị đánh bật ra như một con chó ghẻ.
Nhà cửa tan nát, gia đình ly tán, tài sản bị tịch thu, Thôi Nhiên Thuân cũng không còn là công tử quyền thế ngày xưa nữa. Cái chân gãy khiến hắn còn chẳng nhấc nổi thân mình chứ huống chi là đứng dậy. Cảm giác từ trên cao rớt xuống vùng lầy bị người ta chà đạp làm hắn đau đớn khôn cùng.
Một kẻ què quặt tàn phế thì còn làm gì được?
Hắn còn sống thì có ích gì?
Ý nghĩ đó cứ bám riết lấy Nhiên Thuân.
Chết.
Hắn chỉ muốn chết mà thôi.
Nhưng mà Phạm Khuê không để cho hắn chết.
"Muốn chết? Chết dễ vậy sao?"
Lại là cái giọng khích tướng đáng ghét đó của nó, Nhiên Thuân trừng mắt nhìn thằng nhãi gầy gò trước mặt. Hắn căm tức đến mức ngực phập phồng theo từng hơi thở gấp gáp. Cơn đau từ vết thương cũng không làm hắn giận bằng cái thái độ tỉnh bơ của Khuê.
Mấy ngày nay, Phạm Khuê đã lo cho hắn từng miếng cháo, từng chén nước. Dù bản thân nó cũng chẳng khá hơn là bao, một kẻ kiếm sống bằng nghề chài lưới, bữa đói bữa no, áo quần còn không lành lặn nhưng vẫn ráng mời thầy lang về bó thuốc cho hắn.
Lẽ ra hắn phải biết ơn.
Nhưng hắn không cam tâm.
"Tao nói cho mày biết" Thuân nghiến răng, giọng khàn đặc. "Tao mà còn nằm đây ngày nào là cả tao và mày còn khổ ngày đó. Thà chết quách cho rồi."
Phạm Khuê không đáp, nó chỉ lẳng lặng đặt chén cháo xuống bàn rồi tiến đến cái chạn bếp gần đó, lấy con dao nhỏ đã cất kỹ trên cao. Nó xoay xoay con dao trên tay, mắt nheo lại:
"Muốn chết hả?" Khuê chậm rãi hỏi, giọng không chút cảm xúc.
"Vậy tui hỏi nè, chết rồi thì cậu tính để ai lo hậu sự? Ai chôn cậu? Ai cúng giỗ cậu? Hay là cậu muốn tui quăng cậu xuống biển cho cá rỉa xương mẹ cho rồi?"
Thuân cứng họng không đáp, nói thẳng ra là tức đến cứng người vì thái độ của người trước mắt.
Khuê nhìn hắn, gương mặt vốn hiền hiền giờ ánh lên một vẻ cứng rắn lạ lùng.
"Tui nói cậu nghe, không ai sống trên đời này mà chưa từng khổ hết."
"Cậu nghĩ chỉ có mình cậu là khổ hả? Năm xưa tui cũng như cậu, bị người ta đánh tưởng chết đến nơi, lúc nào cũng phải cúm rúm trước cơn thịnh nộ của thằng chủ. Nhưng rồi sao? Tui vẫn sống để ráng mà bò ra khỏi chỗ đó, rồi tui vẫn đi biển mỗi ngày, vẫn kiếm từng miếng cơm cho bản thân."
"Chỉ có người không chịu nổi khổ mới nghĩ quẩn thôi chứ còn sống thì còn cơ hội, ông trời không tuyệt đường ai bao giờ hết á."
Nhiên Thuân mím chặt môi.
"Tui biết là đương nhiên cậu có quyền chết, nhưng tui cũng có quyền không để cậu chết."
"Ngày nào mà cậu còn nằm đây thì cậu đừng có hòng."
Nói rồi, Khuê bước ra khỏi chòi, đã đến giờ nó phải đi làm như thường lệ. Trước khi đi, nó còn đảo mắt kiểm tra một lượt, dọn hết mấy thứ sắc bén hay nguy hiểm ra khỏi tầm tay của Thuân. Hắn chỉ có thể nằm một chỗ thì còn lâu mới tự hại được nhưng tốt nhất nó vẫn nên xem kĩ rồi dẹp sạch hết đi, đến mấy sợi cước thường dùng để vá lưới cũng cất lên cao luôn cho chắc.
Nhiên Thuân nhìn theo bóng nó, ngực nghẹn lại.
Thế rồi hắn cười khẩy, là cười nhưng khoé mắt chợt cay xè.
Hắn không nhớ rõ mình đã trôi dạt trên biển bao lâu. Chỉ nhớ là nước lạnh lắm, lạnh đến nỗi da thịt tê dại và đầu óc trở nên mơ hồ giữa cơn mê sảng. Cả người hắn đau đến mức không còn phân biệt nổi đâu là vết thương, đâu là da thịt lành lặn.
Khi Phạm Khuê lôi hắn ra khỏi chiếc thuyền thúng, Thuân chỉ kịp nghe tiếng thở gấp của nó, rồi cả người bị đặt xuống nền cát ẩm. Lúc đó, hắn còn không mở nổi mắt nhưng vẫn cảm giác được hơi gió mặn chát luồn qua những chỗ da thịt bị rách, đau rát như bị người ta cứa lên bằng dao cùn. Chân trái của hắn, nói đúng hơn là từ phần đùi trở xuống mắt cá gần như không còn cảm giác gì nữa. Hắn lờ mờ nhận ra có gì đó không ổn, rồi khi gió biển táp vào và Phạm Khuê xốc hắn lên lưng mình để về chòi, cái đau buốt tận óc ập đến hắn mới biết, gãy rồi.
Không cần ai nói Thuân vẫn tự biết là do hắn bị đánh bằng gậy, đánh trong nhiều ngày, đánh đến mức xương nứt ra, gần như gãy nát. Khắp người hắn đầy vết bầm tím và vết cắt, có chỗ sưng to đến mức da căng ra, chỉ cần đụng nhẹ là đau đến chết đi sống lại. Cánh tay phải bị trật khớp, lòng bàn tay còn dính máu khô, có lẽ là máu của chính hắn, hoặc có khi là của ai đó trong nhà mà hắn còn chẳng kịp nhớ.
Áo quần rách bươm, bùn đất và nước biển bám đầy.
Lưng.. hắn không thấy được, nhưng cảm nhận rõ ràng từng vết roi hằn sâu, rách toạc cả thịt. Những lằn roi cũ chưa lành, đã có thêm những vết mới, từng đường máu rỉ ra theo hơi gió mặn. Mỗi lần thở, lồng ngực Nhiên Thuân đều như bị ai đè nén, đau đến nghẹt cả hô hấp.
Phần tệ nhất có lẽ là đầu. Hắn không chắc mình đã bị đánh bao nhiêu lần, chỉ biết rằng nửa bên mặt mình sưng húp lên, môi nứt toác, một bên mắt gần như không mở ra nổi còn mái tóc thì dính bết máu và nước biển, dán chặt vào trán.
Lúc Thôi Nhiên Thuân tỉnh lại trong cái chòi nhỏ ven biển, hắn thậm chí còn không biết mình đang ở đâu. Hắn chỉ nhớ gió lạnh cứ luồn qua lớp vải mỏng trên người thành từng đợt, mang theo vị mặn nồng của biển và mùi thuốc sắc đắng nghét.
Rồi có tiếng động từ đâu đó phát ra, một âm thanh khẽ khàng thôi.
Là tiếng một ai đó đang quạt than bên góc nhà, là thanh âm nước mưa lách tách nhỏ xuống nền đất ẩm. Thuân cố cử động, nhưng chỉ vừa hơi nhúc nhích, một cơn đau buốt từ chân trái làm hắn nghiến răng đến mức tưởng chừng như sắp gãy cả hàm, mém nữa thì cắn trúng lưỡi.
"Đừng có nhúc nhích."
Giọng nói ấy vang lên, rất bình thản và không mang chút cảm xúc dư thừa nào. Hắn chớp mắt, nhìn về phía phát ra tiếng nói. Cách đó tầm mấy bước chân là một thằng nhóc gầy gò với nước da sạm nắng, nó mặc cái áo bà ba màu nâu cũ mèm, ngồi xổm bên bếp củi, tay cầm muỗng khuấy một chén thuốc bốc khói.
Tự nhiên máu nóng trong người Thuân dồn lên.
Hắn muốn hỏi nó tại sao mình lại nằm đây, cứu hắn làm gì để hắn phải còn ý thức để thấy được tình cảnh ngặt nghèo của mình lúc này. Nhưng cổ họng thì khô rát, đến mức hắn chỉ còn thều thào được hai chữ:
"Nước.. nước.."
Khuê chẳng nói chẳng rằng, chỉ lẳng lặng bưng một cái gáo dừa đến, nó nâng đầu Thuân lên rồi kề vào môi hắn. Nước mát rượi trôi xuống cổ họng, nhưng hắn chẳng kịp tận hưởng bao nhiêu thì nó đã đặt người nằm xuống lại.
"Uống đủ rồi." Khuê nói tỉnh bơ.
"Đủ gì mà đủ!!"
"Cậu bị sốt mấy ngày rồi." Nó đáp tỉnh queo, rồi thản nhiên thổi nguội chén thuốc, kề đến miệng Thuân. "Uống đi, xong rồi tui cho uống nước tiếp."
Hắn nghiến răng, mắt trừng trừng nhìn nó.
"Tao không uống!"
Thuốc đắng nghét, chỉ ngửi thôi cũng đủ làm người ta buồn nôn. Nhưng Khuê không có vẻ gì là bận tâm cả, nó ngồi đó, chén thuốc vẫn đưa ra, mặt tỉnh như không, không thúc ép mà cũng chẳng chịu rút lại.
Hai đứa cứ nhìn nhau như vậy.
Cuối cùng Nhiên Thuân chịu thua. Hắn đầu hàng, không không còn sức để cãi vã. Hắn nghiêng đầu, nghiến răng nhấp một ngụm thuốc, rồi suýt nữa phun ra vì vị đắng tràn khắp miệng.
"Tởm!" Thôi Nhiên Thuân nhăn mặt, giọng đầy cay cú.
"Mày nấu thuốc hay nấu độc vậy?"
Khuê không đáp, nó chỉ cười khẽ. Hắn biết nó đang cố nhịn cười, và hắn càng thấy tức hơn nữa.
Mà đó chỉ là sự khởi đầu.
2.
Mấy ngày sau đó, Nhiên Thuân trở thành một con thú dữ nằm trong chòi.
Cứ mỗi lần cơn đau từ cái chân gãy hay vết thương trên người hành hạ, hắn lại không kiềm được mà cáu kỉnh. Hắn quát tháo, hắn mắng nhiếc, có lúc còn muốn đập phá, nhưng sức hắn thì quá yếu, ngay cả cái chén cũng cầm không nổi, võ mồm nhiều lúc cũng nói chẳng ra hơi.
Khuê thì vẫn không nói gì, nó chỉ lẳng lặng làm những gì cần làm: nấu cháo, sắc thuốc, thay băng, lau người cho Thuân. Trước cơn thịnh nộ của hắn, có khi nó im lặng, có khi lại buông một hai câu chọc tức, tuy vậy nhưng nó chưa bao giờ bỏ đi.
Có một lần Thuân chửi nó hơi nặng, hắn còn xua tay làm bể một chén cháo, sau đó thì Khuê bỏ đi mất. Lần này hắn thấy nó đi lâu hơn bình thường, đến sẩm tối, chắc là chịu không nổi nữa mà kệ hắn hệt như ý hắn muốn rồi.
Nhưng rồi Khuê trở về vào lúc trăng lên cao, trên tay là bó lá thuốc mới bốc từ ông lang trong làng, quanh chỗ nó ở thì không có đốc tờ, mà nó cũng không đủ tiền để mời đốc tờ về khám cho hắn. Thuân hỏi nó tại sao còn trở lại, nó chỉ nhún vai:
"Lo cho cậu thì được chứ chôn cậu tui làm không được."
Thuân nhìn nó, tự dưng nghẹn họng.
Những ngày sau đó, hắn vẫn cáu, vẫn tức giận, nhưng đã không còn mang sự thù hằn với Khuê nữa. Bởi hắn biết, chỉ có Phạm Khuê là người duy nhất sẽ không bỏ rơi mình.
Sống lâu trong cái chòi nhỏ giữa làng chài, Nhiên Thuân dần nhận ra rằng mình không còn muốn chết nữa.
Hắn cũng không rõ từ lúc nào cái ý nghĩ tìm đến cái chết không còn ám ảnh mình mỗi ngày. Có lẽ là từ lúc hắn bắt đầu tự lết thân mình di chuyển được trong phạm vi từ cái chõng nằm đến bếp củi thay vì nằm một chỗ bất động như khúc gỗ. Cũng có lẽ là từ lúc mà hắn có thể tự bưng chén cháo do Phạm Khuê nấu, tự mình đút lấy từng muỗng mà không phải nhờ nó kề đến tận miệng.
Hoặc cũng có thể là từ lúc Thôi Nhiên Thuân bắt đầu bực mình vì cái tính không lo xa của nó.
Dạo gần đây, hắn cảm thấy mình dần có hồn người hơn. Không còn lờ đờ, cũng chẳng còn cảm giác trống rỗng như trước nữa. Mà ngược lại, Thuân bắt đầu để ý nhiều thứ trong nhà: cái này hư, cái kia dơ, chuyện này làm vậy thì có lợi hơn, chuyện kia thì tổn công tổn sức vô ích. Cũng vì vậy mà hắn lại hay bực bội với Phạm Khuê - cái thằng sống qua ngày đúng nghĩa chứ không bao giờ chịu tính chuyện lâu dài.
"Hết cá rồi hả?" Thuân hỏi, mắt liếc cái rổ tre chỉ còn lại hai con cá bên góc nhà.
Khuê gật gù:
"Ừ, hôm nay ít cá quá, mà tụi ngoài chợ nó ép giá ghê lắm, nên tui bán hết, chừa lại hai con để ăn thôi."
"Mày ngu quá." Hắn nhăn mặt.
"Ngu chỗ nào? Mắc mớ gì chửi người ta ngu?" Khuê trừng mắt.
"Thí dụ mấy bữa trước dư cá nhiều đó, xong rồi mày không biết xẻ khô hay làm mắm hả? Có thêm thứ để bán, kiếm thêm mớ tiền. Rồi thí dụ hôm nay tụi nó ép giá thì mày đừng bán nữa, được thì bán còn không thì để đó, đem về phơi khô cũng còn có cái ăn, ai mua thì bán cho người ta. Mày đâu có cần xài tiền nhiều. Có chịu động não không vậy?"
"Rồi hôm bữa tao nghe mày bị người ta ăn hiếp mà cũng không biết đường cãi lại. Hay mày nuôi thêm con chó rồi đi đâu dẫn nó theo, cùng lắm thì thả chó cắn người."
Khuê gãi đầu, ra vẻ không phục:
"Ai nói không cần xài tiền! Tui thì sao cũng được hết nhưng mà cậu còn phải bó thuốc dài dài kìa."
Về chuyện nuôi chó trong đầu nó có một câu trả lời, nhưng mà nó không dám nói.
"Trong nhà đang nuôi một con dữ quá trời, nuôi thêm con nữa phải tốn thêm nồi cháo, thôi bỏ đi."
"Mà cậu nói vụ xẻ khô với mần mắm gì đó, tui đâu có biết làm." Im một lúc Khuê lại nói, nó chỉ biết nấu cháo, nấu cơm, kho cá, luộc rau. Còn lại thì dốt. Mong chờ gì sự khéo léo của một thằng cục mịch như nó nữa.
Thuân nghe xong hừ mũi:
"Không biết thì ra chợ lân la, kiếm mấy chỗ người ta làm mà học, có ai sinh ra đã biết làm liền đâu?"
Khuê nheo mắt nhìn hắn, rồi đột nhiên nó bật cười.
"Cậu làm như cậu rành lắm vậy."
"Không rành thì cũng biết chút chút. Hồi trước nhà tao có mấy vựa làm khô, mấy chị bếp với gia nhân làm hoài, tao coi riết cũng biết." Thuân bĩu môi, thế rồi đôi mắt hắn bỗng mang mác chút buồn.
"Giờ biết thì tự làm đi chứ kêu tui ra chợ học chi?" Khuê nhếch mép.
Cậu Hai nghiến răng đáp:
"Tao què, tao chưa có lết đi xa được thì sao mà làm? Với lại gọi là biết chút chút chứ chưa chắc, mày lo đi chợ hỏi thăm người ta trước đi, còn chuyện làm sao thì về tao tính."
Khuê bật cười ha hả, nhưng cuối cùng vẫn nghe lời Thuân, bắt đầu lân la làm quen mấy sạp khô mắm bên chợ. Hắn biết nó cũng không phải đứa ngang bướng gì, chỉ là nó không có thói quen nghĩ xa như hắn mà thôi. Thuân sống trong nhung lụa từ nhỏ, nhìn chuyện kinh doanh buôn bán thành thói, vậy nên hắn biết cái gì có thể làm ra tiền và kiếm thêm tiền, cái gì không.
Nhưng nói thì nói vậy chứ hắn cũng biết thân biết phận rằng giờ mình chẳng còn là cậu hai của nhà ông Hội đồng Thôi nữa. Hắn chỉ là một thằng tàn phế và mất hết mọi thứ, chỉ có thể dựa dẫm vào một người không hề thân thích. Cũng chính vì vậy mà hắn không thể cứ để bản thân sống vất vưởng qua ngày mãi được.
Nhiên Thuân muốn tự mình đứng lên.
————
Một ngày nọ, khi vết thương bắt đầu kết vảy dần và chân cũng bớt đi mấy phần đau đớn, Thuân mạnh miệng bảo Khuê đi đóng cho hắn một cái xe lăn, nếu được thì đẽo thêm cái nạng để hắn tập đi. Lúc nói ra, Thuân cứ nghĩ thằng nhãi đó sẽ cười vào mặt mình, nhưng lạ thay, nó chỉ gật đầu cái rụp, rồi lẹ làng đi kiếm gỗ về làm liền.
Hắn nhìn theo bóng dáng nó, tự dưng thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn bao giờ hết.
Ừ thì, sống tiếp cũng không phải là ý tệ.
3.
Thời gian dần trôi, căn chòi nhỏ bên mé biển đã không còn quạnh quẽ như trước nữa.
Những ngày đầu, Phạm Khuê vẫn chỉ có một mình gánh vác tất cả, từ chuyện lo cơm nước, săn sóc vết thương cho Thuân cho đến việc bươn chải ngoài biển để kiếm thêm từng đồng bạc lẻ. Nhưng rồi khi Nhiên Thuân đã có thể tự vịn nạng mà đi lại trong nhà, có thể lăn bánh xe ra khỏi chòi để ngồi dưới bóng dừa hóng gió và đón nó mỗi buổi trưa tan chợ, mọi thứ đã bắt đầu đổi khác.
Thuân chưa bao giờ là người chịu ngồi yên, hắn nhìn cái cách Khuê làm ăn mà ngứa mắt, không phải vì nó làm sai, mà vì nó không biết tận dụng hết những gì mình có.
"Mày bán cá mà không chịu lựa mối sỉ, cứ ai dặn thì mới kiếm đủ, không thì đem ra chợ bán lẻ từng con vậy đến bao giờ mới dư được chút bạc?" Thuân vừa gọt một khúc tre để lát nữa Khuê leo lên sửa cái mái chòi, vừa cằn nhằn không ngớt.
"Không có mối sỉ chứ tui có chê đâu." Khuê nhún vai.
"Không có thì đi kiếm. Tao nói rồi, ra chợ hỏi thăm người ta, coi ai cần nhập hàng nhiều thì mình bán, chứ ai lại ngày nào cũng xách thúng cá ra chợ xong rồi cãi giá với tụi nó. Nhọc!"
Khuê ban đầu còn ậm ừ sao mà cậu hay nói quá, nhưng rồi cũng chịu lân la tìm kiếm, nhờ cái miệng lanh chanh dễ mến mà quả nhiên mấy ngày sau nó đã kiếm được một bà mối cần cá tươi số lượng lớn, không phải thím Tám mối quen mà là mợ Chín ở cuối chợ.
Từ đó, nó không cần phải chạy khắp chợ mỗi ngày nữa, bán gọn trong một lần là đủ.
Rồi đến chuyện phơi khô và làm mắm kiếm thêm thu nhập, chuyện dự trữ đồ ăn cho những ngày biển động giông gió không ra khơi chài lưới được. Rồi chuyện sửa lại chòi, lợp thêm mái, đóng thêm cái kệ gỗ đựng đồ, tất cả đều là ý của Thuân cả.
Cứ vậy, cuộc sống của hai người dần ổn định hơn. Bữa cơm không còn đạm bạc với mấy con cá chút éc kho mặn cùng mớ rau luộc nữa mà thỉnh thoảng còn có thêm miếng thịt luộc hoặc con cá to nướng mỡ hành. Cái chòi ngày nào xập xệ giờ trông cũng tươm tất hơn.
Nhưng có một thứ vẫn không đổi là tính khí của Thuân.
Hắn vẫn cọc tính như trước, mà dạo gần đây lại hay quạu vô cớ, nhất là khi thấy có người đến gần Khuê quá mức.
Hôm bữa, con Lựu bán bánh ở chợ cười toe toét dúi cho Khuê một cái bánh bò, nhỏ ỏn ẻn nói là:
"Em có dư nên cho anh Khuê ăn lấy thảo."
Chuyện chẳng có gì hết, vậy mà khi Khuê về đến nhà, chưa kịp nuốt hết cái bánh đã bị Thuân quạu:
"Người ta cho cái gì mày cũng nhận hết vậy? Không sợ mắc nợ à?"
Khuê ngớ ra, nhai nhai rồi nuốt xuống mới đáp:
"Cho thôi mà, có phải mượn nợ gì ai đâu mà mắc?"
Thuân hừ lạnh, mặt hắn sa sầm không nói nữa.
Lại có bữa, thằng Sáu chung xóm chài bắt được mớ cá lớn bèn đem sang cho Khuê mấy con. Cái kiểu nó cười nói với Khuê nhìn thấy là biết không có ý gì tốt. Thuân từ trong nhà nhìn ra, mắt hắn đanh lại.
Tối đó, lúc hai đứa ăn cơm, Phạm Khuê còn hồn nhiên khen:
"Thằng Sáu coi vậy mà tốt bụng ghê, cá này tươi ghê hen cậu!"
Thuân gõ đũa xuống mâm cạch một cái, giọng hắn lạnh tanh:
"Ai biểu mày tốt với nó chi? Mày thử nghỉ tốt với nó một bữa coi, để rồi coi nó có tốt hoài với mày vậy không?"
Khuê chớp mắt, nó chẳng hiểu gì hết.
"Là sao?"
Thuân không nói nữa, chỉ cúi đầu ăn tiếp, thầm nghĩ cá gì mà dở ẹc. Hắn thừa hiểu cảm giác khó chịu này từ đâu mà có. Mỗi lần thấy có người cười với Khuê, thấy người ta cho nó cái bánh, con cá hay miếng thịt, khi thấy nó vô tư cười đùa đáp lại, lòng hắn lại nổi lên thứ cảm xúc khó chịu đến lạ.
Hắn biết rõ cảm giác đó là gì rồi.
Nhưng mà Khuê thì không biết.
4.
Có một đêm, trời nổi giông dữ dội. Từng cơn gió gào rú như tiếng người than khóc, quật mạnh vào vách lá, làm căn chòi nhỏ rung lên bần bật. Mưa rơi ào ào nặng hạt, dội xuống mái nhà rách một lỗ vì bị gió xé trên góc bếp, nước nhỏ xuống tong tong thành vũng.
Thuân ngồi tựa vào vách, mím môi ôm cái chân đau âm ỉ theo từng cơn trở trời. Hắn nhìn ra bên ngoài tối đen như mực, ánh chớp lóe lên soi rõ từng đường nét hung hãn của cơn bão. Trong lòng bỗng có chút hoài niệm, vì trước đây khi còn ở nhà Hội đồng, Thuân đâu có khi nào phải thức trắng vì nghe tiếng mưa rơi trên mái nhà rách, lo sợ gió sẽ tốc bay luôn nơi trú ngụ của hai người, lo cho sáng mai mưa chưa tạnh thì trong nhà còn gì để ăn, lo cả chuyện biển động thì cá sẽ ít, mà nếu ít cá thì Khuê sẽ buồn.
Hắn chưa từng sợ phải thấy ai phiền lòng như bây giờ cả.
Mưa bão liên tiếp nhiều ngày liền, cũng vì đó mà mấy nay Khuê không ra biển được. Nó ngồi bó gối trước bếp, cời cời mấy thanh củi cho lửa đừng tắt. Ánh lửa bập bùng phản chiếu lên gương mặt rám nắng, hắt bóng nó lên vách chòi, nhìn nhỏ bé mà kiên định lạ kỳ. Từ ngày rước cậu hai Thuân về đây, những hôm mưa gió thế này nó cũng quen rồi, quen với việc không ra khơi, quen với việc chỉ loanh quanh trong chòi, lo cơm lo nước, thi thoảng còn phải xoa bóp chân cho cậu vì trời trở lạnh là vết thương lại nhức.
Nhưng mà nó thấy vui vui, vì ít ra nó cũng không còn phải một mình quạnh quẽ như trước nữa.
"Nay lạnh quá ha cậu?" Khuê quay lại hỏi, giọng nói lẫn trong tiếng mưa.
Thuân không đáp. Hắn mím môi, nhìn cái bóng nhỏ nhoi của Khuê in trên vách, trong lòng dâng lên một cảm giác khó gọi tên.
Khuê thấy hắn không nói gì, nó bèn đứng dậy, lại gần lấy tấm chăn cũ vắt lên chân hắn.
"Đắp vô, kẻo mai lại đau."
Thuân nghiêng đầu nhìn nó, ánh mắt hắn tối lại, giọng khàn đi vì hơi lạnh:
"Mày có hối hận không?"
"Hối hận gì?" Khuê cười cười, rồi như hiểu ra câu hỏi bèn lắc đầu: "Không có đâu. Tui mà hối hận thì bữa đó đâu có rước cậu về."
Thuân siết chặt mép chăn trong tay, hắn thinh lặng hồi lâu. Mưa vẫn rơi không ngớt, gió vẫn rít từng hồi, mà trong căn chòi nhỏ lại ấm áp đến lạ.
5.
Dạo này cậu hai Thuân hay nhìn Khuê lắm. Mới đầu nó còn thấy lạ, không biết mình đẹp chỗ nào, hay mặt nó dính gì mà hắn cứ nhìn miết. Nhưng dần rồi quen, nó kệ luôn. Cậu muốn nhìn cứ nhìn, nó có biết nguyên do thì cũng để làm gì? Một thằng chài lưới, trước kia thì ở đợ, từ nhỏ đến lớn quen tắm mình trong nước mặn, da dẻ rám nắng, chân tay thô kệch thì chỉ cần không đói là đã may mắn lắm rồi.
Nó chưa từng nghĩ có ai lại nhìn mình theo cách khác, cũng chưa từng soi trong gương một cách kĩ càng để xem mình trông thế nào.
Nhưng trong mắt Thuân thì Khuê có một vẻ đẹp lạ.
Không phải cái đẹp tinh tế của tiểu thư khuê các hay mấy tay công tử cùng thời, cũng không phải là nét sắc sảo của mấy cô đào hát mà hắn từng gặp. Khuê đẹp theo cách của một người con trai sống giữa trời biển - tự do, hoang dã, mạnh mẽ và không một chút kiểu cách.
Nước da rám nắng không làm nó xấu đi mà ngược lại còn khiến người ta bị thu hút. Làn da đó ôm lấy đường nét rắn rỏi của một người đã quen làm lụng, bờ vai gầy nhưng cứng cáp, cánh tay lúc kéo lưới thì nổi rõ những đường gân chắc nịch. Dưới ánh mặt trời, mỗi khi giọt nước biển còn đọng lại trên làn da ấy, Khuê trông giống như một phần của biển cả, khoáng đạt và sống động đến lạ lùng.
Nhưng có lẽ thứ thật sự khiến Thuân không dứt mắt ra được là ánh mắt của Khuê.
Đôi mắt đen nhánh, sáng trong, lúc nào cũng thẳng thắn nhìn người khác, không mang chút giả dối nào. Lúc Khuê cười, mắt nó cong lên, hồn nhiên như một đứa trẻ. Lúc nó nổi nóng, ánh mắt lại sáng rực lên như lửa, mạnh mẽ và dữ dội. Nhưng dù là lúc nào thì đôi mắt ấy cũng chưa từng có vẻ gì là dè dặt hay giả tạo.
Thuân từng gặp bao nhiêu người trong giới quyền quý, ai cũng có thể cười với hắn, có thể nói những lời hay ho với hắn, nhưng ánh mắt họ khi nhìn hắn chưa bao giờ giống với ánh mắt của Khuê.
Và cái làm cho hắn khó mà dứt ra được chính là cái tính khí trời đánh của thằng nhóc này.
Khuê hiền thật, nhưng không phải kiểu hiền nhẫn nhục. Nó không sợ ai, cũng không biết cúi đầu trước ai, kể cả Thuân. Ngày trước, khi còn làm kẻ ở đợ, nó kể hắn nghe rằng mình có thể chịu đòn vì bạn, không phải vì nó hèn yếu, mà vì nó không muốn nhìn thấy kẻ yếu hơn mình bị bắt nạt. Khuê giúp người mà không chờ ai trả ơn. Cái gì đúng thì làm, cái gì sai thì không chịu nhịn.
Nhưng cái khiến Thuân vừa tức vừa buồn cười nhất chính là cái đầu óc đơn giản của Khuê.
Khuê không biết tính toán so đo gì. Hắn chỉ mới gợi ý vài câu mà nó đã nghe theo răm rắp mà chẳng bao giờ nghĩ xa hơn một bước. Nó không hề biết cái gì là mưu mô hay tâm tư của con người. Có người cho nó đồ, nó sẽ vui vẻ nhận mà không hề nhận ra người ta có ý với mình. Có người khen nó, nó sẽ gãi đầu cười ngốc nghếch, chẳng biết người ta đang tán tỉnh.
Nó làm lụng cực khổ nhưng chưa bao giờ than vãn. Có ít tiền trong người, nó cũng chẳng nghĩ đến chuyện dành dụm riêng cho mình, cái gì cũng xài cho cả hai, hoặc không thì để dành mua thuốc cho hắn, cứ mặc nhiên cho rằng Thuân là người nhà của nó vậy.
Cái gì Khuê cũng tốt, cái gì cũng ngốc nghếch, nhưng cái gì cũng đều làm Thuân không buông nổi.
Hắn biết rõ điều đó.
Biết rõ, nhưng chẳng dám nói ra. Vì lẽ đó mà Thuân khiến Khuê chỉ cứ tưởng đơn giản là hắn hết ghét nó rồi nên mới dễ chịu hơn. Nó cho rằng lý do để Thuân không còn khó chịu nữa là vì giờ hai đứa đã thân thiết hơn, và nó cứ tưởng Thuân đối với nó chỉ là tình nghĩa của một người từng chịu ơn người khác.
Phạm Khuê không cần hắn trả ơn, và quan trọng nhất.. nó nghĩ rằng sớm muộn gì Thuân cũng sẽ rời khỏi nơi này.
Một người vốn có tài như Thuân, dù bây giờ chưa có gì trong tay thì một ngày nào đó hắn cũng sẽ làm lại cuộc đời. Hắn sẽ không thể nào cứ ở mãi cái chòi nghèo nàn này, bám theo một thằng chài lưới như nó mà sống đến hết đời được.
Khuê không hiểu lòng người, nhưng nó thừa hiểu cái lý lẽ ấy.
Người như Thuân, sớm muộn gì cũng sẽ rời đi.
6.
Hôm đó, trời không có gió, nắng chang chang hắt xuống bãi cát thành một sắc vàng chói mắt.
Khuê nhớ rất rõ, bởi vì lúc người ta đến tìm Thuân, nó đang ngồi bên chiếc thuyền thúng, tay còn lấm lem mớ dây cước mới vá. Nghe tiếng gọi, nó ngước lên, thấy hai người đàn ông lạ mặt đứng trước sân nhà.
Bọn họ mặc đồ tươm tất lắm, cách nói chuyện cũng thuộc kiểu người có chữ nghĩa chứ không có giống dân chài lưới ở đây. Một người lớn tuổi hơn, râu ria gọn ghẽ, nhìn Thuân bằng ánh mắt tôn kính. Người còn lại trẻ hơn, có vẻ là tùy tùng, tay ôm một bọc vải trông như y phục mới.
"Cậu Hai." Người lớn tuổi kia khẽ cúi đầu, giọng điềm đạm nói. "Chúng tôi vất vả lắm mới dò được tin của cậu. Xin cậu theo về, mọi thứ trên Gia Định đang chờ cậu."
Khuê lặng người, không hiểu lắm "mọi thứ" mà ông ta nói là cái gì, nhưng nó biết cái ngày mà mình nói đã đến rồi.
Người như Thuân đâu thể nào ở mãi cái chòi này với nó được.
Nhiên Thuân im lặng rất lâu. Từ lúc người ta đến hắn đã không nói một lời, cũng không lộ ra vẻ gì là vui mừng. Hắn chỉ đứng đó, mắt nhìn xa xăm ra biển, như đang nghĩ ngợi điều gì.
Khuê cũng không hỏi, không níu kéo câu nào hay ra chiều luyến tiếc. Nó vẫn là nó thôi, đầu óc đơn giản, không hiểu hết được lòng người khác. Nó chỉ lẳng lặng quay đi, tiếp tục thắt dây lưới, làm như không có chuyện gì xảy ra hết.
Ấy vậy mà đến chiều Thuân đã đi thật rồi.
Hắn không nói gì với nó cả, chỉ nhìn nó rất lâu, ánh mắt sâu thẳm mà Khuê không thể đọc nổi. Rồi Thuân để lại một tờ giấy trên bàn gỗ, mỉm cười với Khuê một cái rồi chống nạng theo bước hai người kia, đi mất.
"Cậu đi nghen Khuê."
.
.
Căn chòi nhỏ trở lại vẻ trống vắng như thuở ban đầu.
Sẩm tối, Phạm Khuê đốt đèn ngồi trước mâm cơm, nhìn qua chiếc giường tre trống không, rồi nhìn tờ giấy vẫn nằm ngay ngắn trên bàn.
Giấy của Thuân.
Chữ của Thuân.
Chữ của hắn đẹp lắm. Dù không biết đọc, nó vẫn nhìn ra đó là nét chữ đẹp, vì chúng cứng cỏi, ngay ngắn, như chính con người của hắn vậy.
Nó muốn biết Thuân viết gì. Muốn lắm.
Nhưng đồng thời, nó cũng sợ.
Nó sợ đây là một thứ gì đó quan trọng không thể tiết lộ mà Thuân nhờ nó giữ, cũng sợ rằng nếu nó mang đến cho thầy giáo trong làng đọc, rồi thầy bảo đây chỉ là một danh sách vật dụng hay một mảnh giấy không có gì đặc biệt thì nó sẽ thất vọng biết bao.
Còn nếu lỡ đó là lời từ biệt của cậu, rằng cậu cảm ơn nó, cậu sẽ không về nữa?
Nó không muốn nghe.
Thế là Khuê không mở giấy ra nữa, cũng không nhờ ai đọc giùm. Nó cất tờ giấy cẩn thận trong chiếc hộp thiếc nhỏ, đặt kế đầu nằm như một thứ kỷ niệm chỉ để nhớ chứ không nên động vào.
7.
Cậu Hai đi rồi, Khuê buồn lắm.
Ban ngày còn đỡ, nó lao đầu vô công việc, bận bịu từ sáng đến tối để không nhớ tới người kia. Nhưng đêm xuống, nằm một mình trong căn chòi rộng thêm ra mấy phần, nó lại nhớ.
Nó nhớ cái mặt cau có của cậu mỗi lần xẻ cá cho nó ướp, mồm thì chửi nhưng tay vẫn cứ làm chứ không bỏ mặc nó loay hoay một mình bao giờ.
Khuê nhớ bữa nó nấu nồi cháo mà lỡ tay bỏ quá trời muối, vậy mà cậu vẫn húp bằng sạch, không chê dở cũng chẳng miễn cưỡng khen ngon. Ăn xong đương nhiên là Thuân khát nước, cậu uống nhiều lắm, tu ừng ực rồi đến nửa khuya đang say ngủ thì khều nó dậy:
"Khuê ơi, tao mắc đái."
Nó còn chưa mở mắt ra hết đã nghe cái giọng bực bội của cậu:
"Mẹ nó, chân què còn bị mày cho ăn cả đống muối, báo hại tao khát gần chết, bây giờ tới lúc lãnh quả báo rồi nè! Đi lẹ lên coi!"
Khuê cười hì hì, nó xoay người đỡ cậu ngồi dậy, dìu người qua chiếc xe lăn rồi đẩy ra bụi cây tít sau hè.
"Khoan! Mày đi đâu? Ở đây tối thui hà!" Thấy Khuê chuẩn bị quay vô, cậu Hai không khỏi cuống quýt.
Nó ngơ ngác:
"Thì tui đi vô chớ đâu."
Thuân không nói nhưng nét mặt nhăn nhó đã lộ rõ vẻ khó chịu. Một lúc sau hắn mới lầm bầm:
"Ở đây có.. có ma không?"
Khuê mém bật cười, nhưng nhìn bộ dáng cậu gồng lên ra vẻ bình tĩnh, nó nén lại, không thôi cậu chửi chết.
"Không có đâu cậu." Nó nghiêm túc trả lời. "Mà có thì cũng chỉ là người khuất mặt, cậu ăn ở phước đức vậy người ta không làm gì đâu mà."
Cậu Hai lườm nó, tranh thủ tè xong thì đẩy xe vào nhà để Khuê dìu lên giường ngủ.
Mấy chuyện tương tự như vậy nhiều lắm. Cứ nghĩ đến là Phạm Khuê lại nhớ.
Mà có lẽ nhớ nhiều nhất là cái dáng vẻ của cậu.
Cậu hai Thuân đẹp lắm. Không phải nét đẹp đơn thuần như gái quê làng bên, cũng không phải cái đẹp rắn rỏi như trai biển mà nó hay gặp. Cậu mang cái đẹp của một người sang trọng, từ ánh mắt, rồi tới từng đường nét trên mặt, từ cái cách cậu ngồi, cách mà cậu nói chuyện.
Khuôn mặt cậu góc cạnh, đường quai hàm rõ ràng, gò má cao, môi cong nhẹ và một đôi mắt sắc bén của một người sinh ra để ra lệnh cho người khác.
Nhưng kể từ khi ở với nó, cùng sống trong căn chòi này, những nét cứng rắn đó của Nhiên Thuân dần dịu lại. Hắn không còn là cậu Hai con quan Hội đồng, mà trở thành một người đàn ông bình thường có đôi tay vững vàng sẽ giúp nó xẻ từng con cá, giúp nó sửa lại ngôi nhà, phụ nó nấu cơm, chẻ củi hay đôi khi chỉ đơn giản là ngồi thẫn thờ dưới gốc dừa, mắt nhìn xa xăm ra biển nhớ về một ngày đã xa.
Khuê nhớ cậu lắm, mà lâu lắm rồi không được gặp cậu nữa.
Mới đó mà thời gian Nhiên Thuân đi đã tròn hai cái Tết.
Tết đầu tiên cùng nhau, lúc đó Khuê chỉ mới nuôi cậu được nửa năm.
Nó vốn dĩ không có nhiều tiền để sắm đồ Tết như người ta, mà cậu Hai cũng không có vẻ gì là để ý chuyện đó, chỉ là đơn giản quét tước nhà cửa, trưng thêm chậu cúc cho có không khí năm mới rồi thôi.
Hôm hai chín Tết, Khuê xách về một ít lá chuối, thêm mớ nếp với đậu, nó hì hụi gói bánh tét. Nó thì sao cũng được nhưng nó không muốn để Thuân phải chịu nhiều thiệt thòi như vậy, dù không có đồ đẹp cho cậu nhưng mà đòn bánh tét, tô canh khổ qua hay miếng thịt kho hột vịt thì nó làm được.
Nhiên Thuân chống nạng đi tới đi lui nhìn Khuê bày đồ ra làm, rồi hắn cười khinh:
"Mày biết gói bánh không đó?"
Khuê hừ mũi, cúi đầu tiếp tục buộc lạt:
"Biết chớ sao không? Năm nào cũng gói!"
Cậu Hai khoanh tay đứng nhìn một lúc, rồi nghiêng người ngồi xuống cạnh nó. Nhìn thêm lát nữa, hắn lại ngứa mắt cầm một đòn bánh lên cẩn thận chỉnh lại lạt buộc, rồi tiếp tục cầm thêm một cái khác.. Rồi cuối cùng là hắn lê người xuống tự làm luôn, thao tác gói còn nhuần nhuyễn và nhanh hơn cả nó.
Khuê nhìn mà há hốc miệng.
"Cậu biết gói hả?"
Thuân hất mặt:
"Nhà tao hồi đó Tết nào chả gói bánh."
Nhìn cậu Hai ngồi đó, đôi tay thoăn thoắt quấn lá, đong nếp, buộc lạt, Khuê nghĩ trông cậu chẳng giống cái người từng sống trong lầu son gác tía gì cả.
Năm đó, cả hai gói được một nồi bánh nhỏ, tự nhóm lửa ngồi canh tới khuya. Khuê kể đủ thứ chuyện trên trời dưới biển, còn cậu Hai thì ngồi yên lặng nghe, lâu lâu lại gật gù một cái.
Tết đó, dù nghèo nhưng vui và đầm ấm không khí gia đình.
Đến cái Tết thứ hai, nó chỉ còn một mình.
Bây giờ là cái Tết thứ ba.
Bánh tét năm nay vẫn có, nhưng không còn ai ngồi gói chung. Nó cũng đã biết cách xào nếp cho ngon, nhưng người từng chê nó vụng đã không còn ở đây để nếm thử nữa.
Chòi nhỏ vẫn như cũ, biển vẫn vỗ sóng từng ngày trên bờ cát, nhưng có điều gì đó đã khác đi mất rồi.
Khuê nhớ cậu Hai.
Nhớ đến phát bực.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro