37

Bất kỳ cải cách nào cũng phải trả giá, và Franz nhanh chóng cảm nhận được điều này. Là nạn nhân của cuộc cải cách quân sự lần này, ba người em trai của Franz đã đến để phản đối.

Không nghi ngờ gì, ba cậu nhóc đã bị ông đàn áp tàn khốc, bị nói đến mức câm miệng và bỏ đi trong sự xấu hổ.

Thực tế, Franz cũng muốn thành lập trường sĩ quan thiếu niên quý tộc, nhưng cuối cùng vì nghèo mà buộc phải tạm thời từ bỏ ý định này.

Không có cách nào khác, đây là tình hình quốc gia của Áo quyết định. Hiện tại, chi phí giáo dục quân sự cho con cháu quý tộc do chính quý tộc tự gánh vác. Một khi chính phủ thành lập trường sĩ quan thiếu niên quý tộc, thì khoản chi phí này sẽ do chính phủ đảm nhận.

Việc đào tạo những con cháu quý tộc này không thể qua loa, phải thực hiện giáo dục tinh hoa. Chi phí giáo dục hàng năm cho vài chục ngàn con cháu quý tộc ít nhất cũng lên tới hàng chục triệu florin, thậm chí vượt quá một tỷ cũng không phải là điều lạ.

Ngoài các môn quân sự, văn hóa, còn phải có các lớp lễ nghi, nghệ thuật, cưỡi ngựa, săn bắn, đấu kiếm, tôn giáo, vũ hội xã giao...

Tóm lại, chỉ một chữ "quý" là đủ hiểu. Loại giáo dục tinh hoa này, ngay cả những gia đình quý tộc bình thường cũng không thể gánh vác nổi, vậy thì phải làm sao?

Câu trả lời rất đơn giản: phụ huynh tự mình giáo dục thế hệ sau, hoặc để con cái học hỏi từ bạn bè và người thân.

Tất nhiên, đây là những quý tộc có bề dày truyền thống. Quý tộc mới nổi không có khả năng cung cấp loại giáo dục cao cấp này, khí chất quý tộc không được nuôi dưỡng, nên họ bị gọi là nhà giàu mới nổi.

Dù sao, các trường phổ thông ở Áo ngoài các môn văn hóa, cũng có những khóa huấn luyện quân sự cơ bản – đây là truyền thống của vùng Đức.

Như người ta thường nói, "trên làm dưới bắt chước", việc bắt chước hành vi của giai cấp thống trị vốn là hiện tượng bình thường trong xã hội. Trường học phổ cập ở Áo dù điều kiện kém, nhưng cũng không thiếu những khóa huấn luyện quân sự cơ bản.

Việc bãi bỏ "quân đội búp bê" chỉ là một khúc nhạc nhỏ trong cải cách quân sự, ảnh hưởng thực tế không lớn. Những sĩ quan mang tính danh dự này không cần Franz trả lương.

Phẫu thuật thực sự lớn nằm ở hệ thống quản lý hậu cần. Khi vũ khí quân sự không ngừng được nâng cấp, yêu cầu về tiếp tế hậu cần ngày càng tăng, hệ thống bảo đảm hậu cần truyền thống đã không còn đáp ứng được nhu cầu của chiến tranh hiện đại.

Nói một cách đơn giản, đó là việc thiết lập một hệ thống bảo đảm hậu cần chuyên dụng, đội ngũ hậu cần trong quân đội đã được mở rộng.

Đáng chú ý là hệ thống y tế cũng xuất hiện trong quân đội Áo, trở thành một phần quan trọng của hệ thống hậu cần. Mỗi tiểu đoàn đều thành lập đội y tế, và ở cấp sư đoàn còn có bệnh viện dã chiến riêng.

Đáng tiếc là hệ thống y tế hiện tại vẫn chỉ là một cái vỏ rỗng. Những biên chế này chỉ tồn tại trên lý thuyết, số lượng bác sĩ trong bệnh viện dã chiến vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay, chỉ có thể đảm bảo an toàn tính mạng cho sĩ quan.

Theo tình hình hiện tại, Franz ước tính rằng ít nhất phải mất ba đến năm năm, các cơ quan này mới có thể đầy đủ nhân lực. Việc đào tạo nhân tài y tế cũng cần thời gian, ngay cả khi chỉ học những kỹ năng sơ cứu đơn giản trên chiến trường.

Xét đến trình độ công nghệ y tế của thời đại này, chỉ có thể nói rằng có còn hơn không. Franz không kỳ vọng họ có thể cứu chữa những thương binh nặng, chỉ cần giữ được mạng sống của những thương binh nhẹ là được.

Tỷ lệ tử vong trên chiến trường thời đại này vẫn cao ngất ngưởng, nguyên nhân quan trọng nhất là nhiễm trùng vết thương bên ngoài. Thuốc kháng viêm cao cấp không có, nhưng rượu thì Áo không thiếu.

Gần đây, Franz còn cử người sản xuất ra loại thuốc thần kỳ penicillin, ban đầu còn định bán thuốc để kiếm tiền.

Đáng tiếc, dù có thể dùng phương pháp thủ công để sản xuất penicillin, nhưng loại penicillin này không đồng nghĩa với penicillin (penicillin) có thể cứu chữa, vì nó liên quan đến các yếu tố chuyên môn.

Các nhà khoa học tham gia sản xuất đã bị sốc, nhưng thí nghiệm vẫn phải tiếp tục. Nếu không kiểm soát tốt liều lượng, thuốc thần kỳ cứu người cũng có thể trở thành độc dược chết người.

Trong lịch sử, penicillin được phát minh vào năm 1928, nhưng đến cuối năm 1940 mới hoàn thành thử nghiệm lâm sàng, tất nhiên quá trình nghiên cứu có gián đoạn.

Khi nào mới có thể ổn định hiệu quả thuốc và sản xuất ra loại penicillin phù hợp nhất cho con người, điều này phụ thuộc vào nỗ lực của các nhà khoa học. Franz thừa nhận rằng ông thực sự bất lực.

Sản phẩm phòng thí nghiệm đã khó như vậy, việc chuyển đổi từ sản phẩm phòng thí nghiệm sang sản xuất công nghiệp chắc chắn cũng không dễ dàng.

Trong lịch sử, nhờ sự bùng nổ của Thế chiến II, từ việc xác định hiệu quả thuốc trong phòng thí nghiệm vào năm 1940, đến việc bắt đầu sản xuất công nghiệp vào năm 1942, người Mỹ đã lập kỷ lục mới trong lịch sử phát triển dược phẩm.

Franz không nghĩ rằng công nghệ công nghiệp của Áo hiện tại có thể sánh ngang với Mỹ trong Thế chiến II. Đừng nói ba năm, nếu trong vòng mười năm có thể đạt được mục tiêu này, đó đã là niềm vui chung của đất nước.

Franz chỉ có thể cảm thán rằng phim kháng Nhật thần thoại thật sự gây hại không nhỏ.

Thời gian Mỹ sản xuất hàng loạt penicillin là năm 1943, sau đó mới cung cấp cho quân Đồng minh sử dụng. Thật không biết các nhân vật chính trong phim lấy penicillin từ đâu, thậm chí còn sớm hơn cả sản phẩm phòng thí nghiệm.

Sau thất bại này, Franz trực tiếp từ bỏ ý định bán thuốc kiếm tiền.

Trong thời đại mà công nghệ sinh học, công nghệ y tế và công nghệ công nghiệp đều chưa đủ điều kiện, lại không có hệ thống hỗ trợ, ông biết làm sao bây giờ?

......

Thánh Peterburg

Kể từ khi ký kết hiệp ước bí mật Nga-Áo, người Nga đã bắt đầu bước vào giai đoạn chuẩn bị chiến tranh.

Chính phủ Sa hoàng không phải kẻ ngu, họ hiểu rằng lục địa châu Âu vừa trải qua một cuộc cách mạng lớn, các chính phủ đều đang bận rộn củng cố quyền lực và tiến hành cải cách xã hội. Đây là thời điểm tốt nhất để họ mở rộng lãnh thổ.

"Quốc khố của ta, khi nào mới có thể thu đủ kinh phí chiến tranh?" Nicholas I không hài lòng hỏi.

Chuẩn bị chiến tranh đương nhiên phải tốn tiền, không có tiền thì đánh trận gì? Từ năm ngoái đến nay, gần một năm trôi qua, Bộ Tài chính vẫn chưa thu đủ kinh phí chiến tranh, Nicholas I tự nhiên không hài lòng.

Hậu thế đều cho rằng nước Nga nông nghiệp lạc hậu là quốc gia nghèo trong các cường quốc, nhưng Đế quốc Nga thời đại này lại không hề nghèo, thu nhập tài chính lên tới 200 triệu rúp bạc.

(1 rúp vàng = 10,3 rúp bạc, 1 rúp bạc khoảng nửa lượng bạc)

Là một triều đại phong kiến, công nghiệp của Đế quốc Nga đương nhiên không phát triển lắm, kỹ thuật nông nghiệp cũng không khá hơn, nhưng đừng quên họ có mỏ khoáng sản!

Giữa thế kỷ 19, chính phủ Sa hoàng đã phát hiện nhiều mỏ vàng và bạc trong các vùng lãnh thổ mới mở rộng. Chỉ riêng năm 1840, chính phủ Sa hoàng đã đúc 439,9 triệu đồng bạc và 134 triệu đồng vàng.

Việc đúc nhiều tiền vàng bạc như vậy, ngoài việc chứng tỏ chính phủ Sa hoàng giàu có, còn có một lý do đáng buồn: giấy bạc của họ không đáng tin cậy.

Thời Alexander I, người Nga cũng theo xu hướng phát hành giấy bạc, nhưng các thương nhân châu Âu cho rằng chính phủ Sa hoàng không có uy tín, từ chối sử dụng rúp giấy, dẫn đến giá trị của rúp giấy liên tục giảm mạnh.

Năm 1817, Alexander I thay đổi chính sách tiền tệ, cấm phát hành giấy bạc, chính phủ áp dụng chính sách thu hẹp lưu thông giấy bạc, dần dần thu hồi giấy bạc trên thị trường.

Không dùng giấy bạc trong thương mại, đương nhiên phải dựa vào tiền vàng và bạc. Thực tế chứng minh điều này thực sự hiệu quả, chế độ bản vị kép vàng-bạc vừa ra đời đã ngay lập tức được các thương nhân châu Âu đánh giá cao.

Từ những dữ liệu này, rõ ràng chính phủ Sa hoàng thời đại này rất giàu có. Trước khi bạc mất giá, 100 triệu lượng bạc không phải là con số nhỏ, cao hơn nhiều so với Áo trước cải cách.

Là một triều đại phong kiến, Đế quốc Nga lại không có chi phí phúc lợi xã hội, thu nhập tài chính của chính phủ chủ yếu dùng để duy trì quân đội và cơ quan hành chính, lẽ ra đã đủ rồi.

Nicholas I và Franz đều đối mặt với vấn đề xã hội chung: tham nhũng. Dù quốc gia giàu có đến đâu, miễn là vấn đề này không giải quyết được, đừng mong ngân sách sẽ dư dả.

"Thưa bệ hạ, khoản tiền này quá lớn, e rằng phải đợi đến nửa cuối năm sau," Bộ trưởng Tài chính Aristanli trả lời.

Nicholas I nhíu mày hỏi: "Chẳng phải đã thu thuế chiến tranh một lần rồi sao?"

"Thưa bệ hạ, quý tộc vẫn chưa nộp thuế chiến tranh. Họ yêu cầu nộp khoản tiền này sau khi chiến tranh bùng nổ, nên hiện tại số thuế chiến tranh thấp hơn kỳ vọng của chúng ta," Aristanli giải thích.

Đây là hoạt động bình thường, thuế của quý tộc Nga luôn dễ thu. Uy tín của Sa hoàng không cao, quý tộc sợ bị Sa hoàng lừa, trừ khi chiến tranh đã bùng nổ, nếu không rất khó thu thuế trước.

Tất nhiên, nếu Nicholas I cứng rắn hơn một chút, ông có thể thu trước, nhưng điều này sẽ ảnh hưởng đến sự đoàn kết và ổn định trong nước.

Tuy nhiên, Nicholas I sẽ không làm vậy. Quyền lợi và nghĩa vụ ở châu Âu đều được phân chia rõ ràng.

Trong thời chiến, Sa hoàng có quyền thu thuế chiến tranh, quý tộc cũng có nghĩa vụ nộp thuế chiến tranh, nhưng hiện tại chiến tranh chưa bùng nổ mà?

"Thuế từ các địa phương không thể yêu cầu họ nộp trước sao?" Nicholas I nhíu mày hỏi.

"Thưa bệ hạ, chúng ta có hợp đồng thương mại. Nếu yêu cầu họ nộp thuế trước, chúng ta sẽ phải trả giá quá cao," Aristanli kiên nhẫn giải thích.

Đúng vậy, đây chính là chế độ "thầu thuế".

Hiện tại, hầu hết các nước châu Âu đã bãi bỏ chế độ này, nhưng Nga quá rộng lớn, chi phí quản lý trực tiếp của chính phủ quá cao, và khó đảm bảo thu nhập thuế, nên chế độ này vẫn chưa bị bãi bỏ.

Nicholas I nhíu mày nói: "Thôi được, dù sao chúng ta cũng cần thời gian để tích lũy vật tư chiến lược. Tuy nhiên, việc huy động quỹ quân sự, Bộ Tài chính phải đẩy nhanh tiến độ. Ta không muốn vì thiếu tiền mà làm chậm trễ hành động quân sự của chúng ta."

Khác với các Sa hoàng khác, Nicholas I là người có trách nhiệm, không thích phá vỡ quy tắc, và khi đã xác định mục tiêu, ông sẽ kiên trì thực hiện đến cùng.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: #history