𝖈𝖍𝖆𝖕𝖙𝖊𝖗 𝖓𝖎𝖑
plot-build + beta: rubyalucard
author: meriseolie x kiwrj11
꧁✧꧂
"Vật cực tất phản, suy thoái sau khi phát triển hoặc tiến hoá đến mức cực thịnh là điều không thể tránh khỏi, như một lẽ tự nhiên, từ trước tới nay chưa từng có ngoại lệ."
Trái Đất, thiên niên kỷ 4 Công Nguyên.
Sau hơn 3000 năm kể từ khoảnh khắc Chúa giáng sinh, con người trên Trái Đất đã phát triển đến một mức không tưởng, vượt xa khỏi những gì mà trí tưởng tượng của nhân loại những năm 2000 có thể nghĩ đến khi mơ về tương lai. Không chỉ là những thành phố dưới lòng đất, những toà thành đồ sộ dưới đáy biển, hay trí tuệ nhân tạo cùng trí thông minh vượt trội, các thành tựu khoa học công nghệ xuất sắc của thời đại, mà còn là những phát triển vượt bậc của một nền văn minh trí thức cường thịnh chưa từng có trong lịch sử, nơi con người thật sự trở thành chủ nhân của hành tinh xanh, toàn quyền làm chủ và kiểm soát hành tinh này.
Nhưng liệu đây có thực sự là một thành tựu đáng tự hào mà nhân loại đã đạt được? Hay thực chất chỉ là lớp vỏ bọc hào nhoáng, hòng che đi sự thật xấu xí đầy bẽ bàng trong gốc rễ?
Trên đời này vốn chẳng có thứ gì là miễn phí, cái giá của sự phồn vinh và thịnh vượng lại càng không hề rẻ.
Để có thể đổi lấy sự phát triển phồn thịnh mang tính lịch sử này, nhân loại ở địa cầu đã phải trả một cái giá vô cùng đắt đỏ, bằng chính hành tinh mẹ đã nuôi lớn họ - Trái Đất.
Cơ sở vật chất ngày càng phát triển, công nghệ ngày một tiên tiến, cũng là lúc tài nguyên trên hành tinh xanh bị khai thác đến cạn kiệt, thiên nhiên kiệt quệ trước sự khai thác và tàn phá quá mức của con người. Ô nhiễm môi trường từ lâu đã là vấn đề nan giải với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, song không một ai có đủ khả năng khắc phục.
Hoặc, không một giới cầm quyền nào chú trọng công cuộc bảo vệ môi trường để có thể khắc phục tình trạng đó. Hoặc giả là có, thì chỉ trồng một cái cây chẳng thể tạo nên cả một khu rừng, một cánh én cũng không thể làm nên mùa xuân.
Cuộc sống tưởng chừng như tân tiến, phồn vinh thực chất cũng chỉ là một thế giới được chắp vá nhiều mảng, như một ngôi nhà được tô vẽ từng lớp từng lớp sơn sáng loáng để che đậy sự thật rằng nó đã hoang phế từ lâu, lung lay sắp đổ mà chẳng một ai bận tâm đến sửa sang lại nền móng.
Nhưng vì sao, mặc cho tiếng kêu cứu thảm thương của Trái Đất và hồi chuông cảnh báo về mức độ bị ô nhiễm môi trường đang réo lên từng ngày, nhân loại lại vẫn tiếp tục nghiên cứu, phát triển công nghệ, thậm chí là tập trung khai thác năng lượng hạt nhân và nguồn tài nguyên sắp cạn kiệt?
"Vì nhân loại."
Khoác lên mình mỹ danh hướng đến việc tạo nên một cuộc sống trong mơ cho người dân - hiện đại, tự động, tràn ngập hạnh phúc và ấm no, đủ đầy; nhưng những quyết sách của giới cầm quyền có thực sự vị nhân sinh? Hay cốt cũng chỉ để thỏa mãn khát khao quyền lực của chính bản thân họ?
Càng phát triển, đạt được những điều mà trong quá khứ vốn tưởng như không thể đạt được, nhân loại lại càng hy vọng xa vời về những điều không tưởng. Những vọng tưởng ấy, vô tình trở thành động lực để thúc đẩy họ cố chấp đâm đầu tiến về phía trước mà bỏ qua tình trạng đáng báo động của mẹ thiên nhiên.
Hành tinh mẹ đã oằn mình chống đỡ sự khai thác quá độ đến mức tàn phá mà nhân loại gây ra trong suốt hàng thiên niên kỷ. Để rồi đến một ngày kia, khi sự phát triển của nhân loại không còn duy trì được trạng thái đỉnh cao như trước, mà mẹ thiên nhiên cũng chẳng thể chịu đựng sự tra tấn của con người thêm được nữa, thứ đón chờ nhân loại chính là thời kì suy thoái.
Ô nhiễm môi trường lan rộng, hàng loạt thiên tai ập đến, tựa như cơn thịnh nộ mà mẹ thiên nhiên giáng xuống trừng phạt con người sau những tội ác mà Trái Đất phải hứng chịu. Cùng với đó là sự tha hóa đến từ chính nhân loại, khi những mưu đồ xấu xa ăn mòn tiềm thức, bóng đêm vây lấy trái tim con người, khiến cho lương tri dần biến mất và những sự suy đồi lên ngôi.
Thế kỷ XXXIV, Trái Đất bước qua thời kì phồn vinh của nhân loại, dần trở thành một hành tinh chết trước sự khai phá quá độ cùng với sự tha hóa của con người, nhân loại chứng kiến một bước thụt lùi dài hàng trăm, hàng ngàn năm của thế giới. Dù cho nhìn từ bên ngoài, Trái Đất vẫn là một hành tinh xanh căng tràn sức sống, nhưng những "con sâu mọt" đã tấn công đến tận gốc rễ của địa cầu.
Tháng 10, năm 3356, khởi nguồn của tai ương.
Tháng 10 năm 3356, một đại dịch bùng phát trên toàn thế giới. Triệu chứng bệnh ban đầu chỉ được xem như một loại bệnh da liễu thông thường, với những biểu hiện ngứa ngáy trên da và nổi mẩn đỏ. Tuy nhiên, sau một thời gian mắc bệnh, trên da người bệnh liền xuất hiện hiện tượng lở loét và vùng da nơi những nốt mẩn đỏ bị ăn mòn, khiến cho người bệnh cuối cùng sẽ tử vong trong đau đớn do nhiễm trùng máu sau khoảng hơn 1 tháng kể từ khi xuất hiện triệu chứng bệnh lần đầu tiên.
Đã rất lâu kể từ lần cuối cùng nhân loại phải đối phó với đại dịch. Sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như y học từ lâu khiến những dịch bệnh thông thường không có cơ hội lan rộng, cũng khiến cho con người trở nên chủ quan trong việc phòng chống nguy cơ bùng phát một đại dịch toàn cầu. Đại dịch lần này giống một cú đánh thẳng vào hiện thực, như một lời cảnh tỉnh hướng đến nhân loại.
Các quốc gia phát triển bậc nhất cùng những nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực Y học lập tức phản ứng, gấp rút cho người bắt tay vào nghiên cứu nhằm điều chế ra loại thuốc kháng sinh để điều trị loại vi khuẩn chết người này.
Cứ ngỡ loại vi khuẩn này là một chủng vi khuẩn mới chưa được tìm thấy bao giờ, nhưng các mẫu cấy và kết quả phân tích những mẩu da từ những tử thi lở loét cho thấy những cấu trúc DNA tương tự với chủng "S.", một chủng vi khuẩn thường trú trên da tưởng chừng đã bị lãng quên theo dòng y học hiện đại. Chủng biến dị của nó được nghi ngờ là đã thoát ra khỏi một phòng thí nghiệm tư nhân vào khoảng tháng 4-tháng 5 cùng năm, sau một thời gian ủ bệnh và lây lan đã khiến căn bệnh bùng phát lần đầu vào tháng 10 tại Châu Á, trước khi lan rộng trên toàn thế giới.
Là một giai đoạn nhạy cảm, thời gian cấp bách không cho phép họ chần chừ thêm một giây phút nào, các loại kháng sinh được dùng điều trị cho chủng loại này vào thời gian trước chính là một chiếc phao cứu sinh được đưa vào phác đồ điều trị.
Mùa xuân năm 3357, ca đầu tiên được cứu sống thắp lên một nguồn hy vọng lớn lao về một tương lai tươi sáng cho những ca bệnh còn lại.
Dẫu cho đấy chỉ là một ca duy nhất điều trị thành công trong sau gần nửa năm với hàng đống xác thịt nằm ngổn ngang dọc hành lang bệnh viện.
Chiến dịch đẩy lùi đại dịch được phát động trên toàn thế giới, không chỉ về mặt điều trị tại chỗ, bộ Y tế các nước còn kêu gọi chung tay phòng ngừa dịch bệnh lây lan, tuyên truyền phương pháp bảo vệ bản thân và gia đình khỏi dịch bệnh. Nhưng chẳng nhiều người để tâm đến điều đó, thứ họ quan tâm chính là loại thuốc kháng sinh có tác dụng cứu sống bọn họ, không ít người tìm đến các cửa hàng gần nơi ở hòng tìm kiếm thứ thuốc đang được báo đài liên tục nhắc đến.
Số lượng người bệnh nhanh chóng vơi đi, như một lời khẳng định kiểm chứng hiệu quả. Cùng với sự dẫn dắt của truyền thông, nhân loại càng tin chắc rằng thứ thuốc kháng sinh kia chính là "thần dược", chỉ cần dùng một lần thì sẽ không cần lo lắng dịch bệnh nữa. Họ bắt đầu lạm dụng, sử dụng thuốc một cách vô tội vạ mà không thông qua hướng dẫn của bác sĩ.
Chưa kể đến một số ít người, vì chưa từng mắc bệnh, khiến họ nảy sinh suy nghĩ rằng thần chết đã bỏ quên họ, rằng mình chính là người được "Chúa" chọn lựa.
Đại dịch không phải chưa từng xảy ra với nhân loại, trong lịch sử đã không có ít lần như thế, nhiều người cho rằng dịch bệnh như một cách chọn lọc tự nhiên, và lịch sử chứng minh rằng con người vẫn sẽ làm chủ được dịch bệnh, rằng nhân loại vẫn sẽ là kẻ nở nụ cười chiến thắng. Họ tin rằng Chúa sẽ không đời nào bỏ rơi họ.
Rằng đại dịch này, vốn dĩ cũng chẳng hề nghiêm trọng đến vậy.
Đại dịch S.56 ổn định trong hơn nửa năm sau đó, tuy vẫn có những ca tử vong nhưng về cơ bản thì vẫn nằm trong tầm kiểm soát, cho đến khi một biến chủng mới, khác hoàn toàn so với đợt dịch đầu xuất hiện, khiến cho dịch bệnh tái bùng phát. Số thuốc kháng sinh trước kia cũng mất đi tác dụng thần kỳ ban đầu, giờ đây, theo như ước tính của các chuyên gia, công dụng của thứ thuốc kháng sinh kia chỉ còn lại vỏn vẹn 25-40%.
Nhưng, thực tế lại phũ phàng, khi con số 25% là một điều xa xỉ với nhân loại. Trong đợt dịch trước, nhân loại vì không hề nghe theo những lời khuyên ngăn của bác sĩ, lạm dụng thuốc kháng sinh, đã để lại một hậu quả nghiêm trọng - bệnh viện và các cơ sở Y tế tiếp nhận số ca bệnh và kháng thuốc kháng sinh cao hơn bao giờ hết, bất kể là "thần dược" hay là những loại kháng sinh đơn giản.
S.56 khiến da lở loét nghiêm trọng, việc thuốc kháng sinh không thể điều trị, hệ miễn dịch cũng bắt đầu suy giảm khiến người bệnh như một món mồi béo bở cho hàng loạt vi khuẩn tấn công. Đa kháng, đa nhiễm khuẩn, cùng số lượng phòng bệnh vô khuẩn có hạn, nhân loại đối mặt với hậu quả mà những hành động ngu ngốc của họ gây ra, và không còn cách nào có thể cứu lấy họ.
Đáng buồn thay, nhân loại lại quay sang trách ngược hệ thống y tế, hàng loạt tiếng chỉ trích, chửi rủa như một cơn sóng thần ập đến dữ dội. Các đợt tấn công ác ý, bạo lực mạng, kêu gọi tẩy chay, đệ đơn kiện... nhân loại làm mọi cách họ có thể nghĩ ra để yêu cầu Tổ chức Y tế Thế giới cho họ một lời giải thích xác đáng.
Trước tình thế căng thẳng, Tổ chức Y tế Thế giới giữ im lặng, rồi bỗng dưng thông báo rằng đã có vaccine và thuốc đặc trị cho S.56. Một viện nghiên cứu đã nghiên cứu thành công vaccine cùng thuốc kháng sinh cho S.56 - BIK1610, còn được công bố với tên chính thức là BioKvax và thuốc kháng sinh AMXS56, hay Siviotoe.
Tin tức này như một ốc đảo giữa sa mạc, là một cọc gỗ giữa dòng nước xiết, thắp lên hy vọng sống cho nhân loại.
Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, vaccine BioKvax và thuốc kháng sinh Siviotoe được đưa ra thị trường, nhưng không miễn phí. Viện nghiên cứu BioK trao quyền phân phối thuốc cho chính phủ nước sở tại, những người quyết định rằng họ sẽ không để mất miếng mồi béo bở này. Trước hết là ưu tiên cho nhân dân trong nước, rồi sau đó mới bán ra ngoài, và cái giá cũng sẽ không hề rẻ. Dẫu sao, cung cũng không đủ cầu.
Nhưng dù cho giá thành của vaccine và thuốc đều rất cao, không thiếu những đại gia mua số lượng lớn để dành cho gia đình và người thân, càng khiến nguồn cung thuốc khan hiếm hơn nữa.
May mắn thay, sự xuất hiện của BioKvax và Siviotoe dường như đã tiếp thêm động lực và cảm hứng cho những nhà nghiên cứu khác, các loại thuốc kháng sinh và vaccine đặc trị cho vi khuẩn S.56 khác cũng lần lượt được cấp phép. Tuy nhiên, số liệu về độ hiệu quả của những loại vaccine và thuốc kháng sinh mới sau này ấy vậy mà lại không thể sánh bằng BioKvax và Siviotoe, cũng khiến cho cả hai càng trở nên nóng bỏng tay, giá thành cũng bị đẩy lên cao ngất. Không chỉ là do giá bán ra quá cao, mà còn là do sự nhúng tay của những kẻ trục lợi - mua thuốc với số lượng lớn rồi lại bán ra với giá thậm chí còn cao hơn. Những loại vaccine và thuốc kháng sinh sau này cũng không thoát khỏi tình trạng tương tự.
Đến tháng 2, năm 3359, hàng loạt báo cáo tử vong do đột quỵ được ghi nhận trên khắp thế giới, mà không rõ nguyên nhân gây tử vong, cũng hoàn toàn không có tiền sử bệnh tim hay cao huyết áp. Các báo cáo khám nghiệm tử thi ghi nhận rằng nạn nhân đều có tình trạng tụ khối máu đông trong hệ thống động mạch nằm sâu dưới những bộ da đã hoại tử và thối rữa, chỉ còn lại một lớp cơ mỏng dính đang trong quá trình tiêu hủy. Sau khi tổng hợp lại các báo cáo khám nghiệm, ấy vậy mà lại tìm thấy một điểm chung không ngờ của các nạn nhân xấu số - đều đã từng tiêm vaccine BioKvax.
Dư luận lập tức chĩa về phía viện nghiên cứu, và Tổ chức Y tế Thế giới, rằng liệu vaccine có thật sự an toàn hay không? Họ gây áp lực, yêu cầu viện nghiên cứu phải đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho sự việc trên.
Lúc này, truyền thông liên tục đưa ra thông tin rằng viện nghiên cứu BioK đã khống số liệu, nộp trình đơn xin cấp phép khẩn cấp cho vaccine BioKvax và thuốc kháng sinh Siviotoe dù những thử nghiệm lâm sàng và các dữ liệu nghiên cứu vẫn chưa thật sự đầy đủ.
Tháng 5, viện nghiên cứu BioK trở thành một bãi hoang tàn trước cơn giận dữ của người dân, không chỉ là những lời phỉ nhổ chửi bới, họ mang các loại hóa chất, xăng dầu, súng đạn đến tấn công viện nghiên cứu. Thậm chí nhiều người còn tìm đến tận nhà của những nhà khoa học tham gia vào dự án BioKvax, đe dọa đến tính mạng người thân của họ.
Giữa cơn sóng thần giận dữ này, một loạt bài báo phanh phui tất cả sự thật được đăng lên, rằng tuy viện nghiên cứu không vô tội, nhưng họ cũng không phải những kẻ duy nhất có tội - chính quyền nước sở tại và Tổ chức Y tế Thế giới không thể thoát khỏi liên can.
Đến lúc này, sự thật mới dần lộ ra, rằng trong khoảng thời gian dịch tái bùng phát đó, chính phủ nước sở tại đã gây áp lực lên viện nghiên cứu, ép họ phải đưa ra được thành quả, viện nghiên cứu đành phải khống số liệu, trình lên một kết quả chưa hoàn chỉnh cho Tổ chức Y tế Thế giới cấp phép khẩn cấp. Mà Tổ chức Y tế Thế giới, đứng trước làn sóng dư luận gay gắt lúc bấy giờ, cho rằng đưa ra một giải pháp tạm thời nhằm xoa dịu quần chúng là một điều cần thiết, thế nên họ cũng đẩy nhanh tiến độ xét nghiệm, rút gọn các bước thử nghiệm lâm sàng rồi nhanh chóng cấp phép.
Các nhà nghiên cứu ở viện nghiên cứu BioK sau đó vẫn tiếp tục thử nghiệm và cải thiện vaccine BioKvax. Vào cuối năm 3358, họ đã xét nghiệm ra được nguy cơ về tác dụng phụ của vaccine, nhưng đến khi báo lên 'phía trên' thì lại bị bác bỏ. Bọn họ lo sợ rằng bản thân và đất nước sẽ mất đi vị thế hiện tại nếu mọi chuyện lộ ra, cũng như đánh mất số tiền mà BioKvax và Siviotoe có thể mang lại, nên chỉ ra lệnh cho viện nghiên cứu tìm cách khắc phục tác dụng phụ của BioKvax mà không công bố thông tin ra ngoài.
Kết quả là viện nghiên cứu chưa kịp nghiên cứu ra phương thức giải quyết tác dụng phụ của vaccine BioKvax thì hàng loạt ca đột quỵ đã xuất hiện.
Cả viện nghiên cứu, Tổ chức Y tế Thế giới, cùng với những người cầm quyền ở quốc gia sở tại của viện nghiên cứu, đều phải chịu trách nhiệm cho hậu quả này. Song, dưới sự dẫn dắt, thao túng truyền thông, mọi tội lỗi đã bị đổ lên đầu kẻ yếu thế nhất - viện nghiên cứu. Rằng những con số giả mạo kia đều là do viện nghiên cứu vì danh vọng, tiền tài mà đã lừa dối chính phủ nước sở tại và Tổ chức Y tế Thế giới.
Bên cạnh sự thật chấn động về loại thuốc cứu mạng trong dịch bệnh, những bằng chứng tham ô, rửa tiền, những đồng tiền dơ bẩn lấy từ xương máu dân chúng được chi tiêu vào các khoản ăn chơi của giới thượng lưu cũng lần lượt tung bay trên khắp bầu trời, và khi nó đáp xuống mặt đất, thì nó chính là một cú giáng chí mạng lên giới cầm quyền.
Như cọng rơm cuối cùng đè lên lưng lạc đà, làn sóng giận dữ âm ỉ trong quần chúng cuối cùng cũng bùng nổ mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những cuộc biểu tình, những đợt bạo động, những tòa nhà thị chính và trụ sở của Tổ chức Y tế Thế giới ngập tràn trong biển lửa.
Khói đen mù mịt, cửa kính lộng lẫy giờ đây trở thành những mảnh vụn, thấm đẫm những vết máu đặc sệt đỏ thẫm, phản chiếu lại sắc cam của ánh lửa. Hàng băng rôn "Vì thế giới tươi đẹp, vì cuộc sống của nhân dân" cũng bị xé nát, bị chà đạp dưới bùn đất như một món đồ kém giá trị.
Hệt như lòng tin bị chơi đùa của người dân.
Nhìn xem, thế giới tốt đẹp mà con người ca tụng hóa ra chỉ là bức tranh ảo mộng vẽ ra trong khi thực tế lại được kết tinh từ những mục nát và dối trá. Mà chỉ đến khi bị dồn đến đường cùng thì mọi thứ mới vỡ lẽ.
Sự việc xảy ra với viện nghiên cứu BioK và chính quyền nước sở tại làm dấy lên một mối lo ngại khác trên toàn thế giới. Đâu là loại vaccine và thuốc kháng sinh thật sự hiệu quả? Những người đã từng tiêm vaccine BioKvax phải làm sao để tránh khỏi tử thần?
Giá thành của các loại vaccine mới bị đẩy lên nhanh chóng, thậm chí còn vượt qua cả giá thành của BioKvax ở giai đoạn đỉnh điểm. Các loại thuốc được cho rằng có thể giảm tác dụng phụ của BioKvax, dù chưa được kiểm nghiệm chính xác, cũng trở thành món hàng khan hiếm, nóng bỏng tay.
Tháng 10 năm 3360, Chiến tranh thế giới chính thức nổ ra. Bắt nguồn từ sự vùng dậy của một quốc gia vùng vịnh nhỏ bé, với sự dẫn dắt và chỉ đạo bởi một cường quốc ở phía Bắc xa xôi.
Sau nhiều lần đàm phán mua vaccine và thuốc thất bại, Kirevia chính thức tuyên chiến với quốc đảo Novestra, một trong những đất nước phát triển bậc nhất về Y học, cũng là một trong các quốc gia đã yêu cầu cái giá trên trời nếu Kirevia muốn mua thuốc và vaccine, mặc cho những thỏa thuận hợp tác cùng phát triển mà họ đã ký kết trước đó. Nazkara, một cường quốc hàng đầu về kinh tế và quân sự, tuyên bố ủng hộ Kirevia trong cuộc chiến.
Mỗi phe đều có lí lẽ của riêng mình, và chỉ có kẻ chiến thắng mới có quyền viết nên lịch sử cho tương lai, khẳng định rằng lí lẽ của bản thân chính là lẽ phải.
Những tưởng cuộc chiến tranh này cũng chỉ là một trong những cuộc chiến tranh nhỏ lẻ, nhưng sự tham chiến của các cường quốc quân sự còn lại đã nhanh chóng biến nó trở thành một cuộc chiến tranh với quy mô toàn cầu. Nhiều quốc gia khác, hoặc bất mãn với những gì diễn ra trong bốn năm dịch bệnh, hoặc vô tình bị kéo vào, cũng không thoát khỏi cuộc chiến này.
Cả thế giới bỗng chốc chìm trong biển lửa và bom đạn. Tựa như một vòng xoáy vô tận của chết chóc, nhân loại bị cuốn vào một cuộc chiến mà chẳng ai định rõ được là phi nghĩa hay chính nghĩa, là sẽ chiến thắng trở về hay bỏ mạng rồi bị chôn vùi dưới nền đất lạnh lẽo cùng dòng thời gian chảy trôi.
Để có thể giành được chiến thắng trong thế chiến này, các quốc gia đã huy động gần như tất cả thanh niên trai tráng tham gia vào quân ngũ, thậm chí nhiều nơi thiếu nhân lực còn kêu gọi bổ sung cả phụ nữ. Người ra đi không biết ngày trở về, để lại nơi hậu phương biết bao nỗi mong nhớ.
Hôm nay có đứa trẻ mất cha, ngày mai có người mẹ mất đi đứa con mình dành cả cuộc đời để nuôi nấng...
Chiến tranh như chiếc lưỡi hái tử thần kề sát bên tai nhân loại, là hiện thân của mất mát, của tang thương.
Không biết có phải do tâm lý sợ sệt bị dồn nén trong bốn năm dịch bệnh, chỉ có thể được giải tỏa bởi những tiếng la hét và tiếng bom đạn hay không? Nhưng có vẻ như những người tham chiến đã nhanh chóng đánh mất nhân tính, trở thành những con quỷ hung bạo, những hung thần trên chiến trường, chỉ biết đến bản thân.
Sau mỗi thất bại của một thành thị hay thôn quê, là một khung cảnh xơ xác và điêu tàn, chỉ còn sót lại chút dấu vết của sự sống đã từng tồn tại, khi nơi đó gần như sẽ bị "san phẳng" - toàn bộ của cải, lương thực, tài nguyên, con người, đều trở thành những món đồ bị cướp bóc một cách trắng trợn. Mà những kẻ chiến thắng, hoàn toàn có thể để mặc những người thua cuộc mà mở tiệc suốt ngày đêm - như thể chúng đã giành được chiến thắng cuối cùng, trước khi tiếp tục tấn công những nơi khác.
Chỉ hai tuần từ sau lời tuyên chiến của Kirevia, đất nước láng giềng của họ, El Darun, một trong những nước thường được cho là "sân sau" của Novestra, đã bị xóa sổ hoàn toàn khỏi bản đồ thế giới. Không chỉ những người lính tham gia chiến đấu, hay người đứng đầu của El Darun bị hành quyết công khai, mà kể cả những người dân vô tội - phụ nữ, và trẻ em - cũng bị sát hại tàn nhẫn. Thậm chí ở nhiều vùng lãnh thổ của El Darun, họ còn phái chịu đựng những đợt tra tấn trước, và sau khi bị giết hại.
Dường như chỉ chiến đấu và giành chiến thắng là không đủ để thỏa mãn những người lính Kirevia và Nazkara. Phải chăng chỉ có cướp bóc, tàn phá, cướp đi sinh mạng, và thậm chí là hành hạ những sinh mệnh kia, mới có thể giải tỏa những trống rỗng trong tâm trí họ?
Mọi thứ dường như bắt đầu vượt ra khỏi tầm kiểm soát, chính phủ các nước tham chiến cũng bị cuốn vào một cuộc chạy đua vũ trang không có điểm dừng. Hàng loạt bản thiết kế, những cuộc thử nghiệm liên tục và sự ra đời của nhiều loại vũ khí tối tân nhất, nhằm thị uy với đồng minh, đe dọa kẻ thù và quan trọng nhất, là đạt được thắng lợi quân sự quyết định trong thế chiến.
Cuộc chạy đua vũ trang, cùng khát khao theo đuổi cuộc chiến tranh dai dẳng của các các nhà cầm quyền đã khiến họ quên mất một nhiệm vụ quan trọng hơn cả - đảm bảo cuộc sống an toàn và ấm no của nhân dân.
Số tiền đầu tư vào vũ khí quân sự và các chiến trường chiếm phần trăm cao ngất trong cơ cấu ngân sách Nhà nước, các lĩnh vực khác lại hoàn toàn không được chú trọng, hoặc tệ hơn, bỏ quên. Hậu quả để lại chính là sự suy thoái của hàng loạt nền kinh tế hàng đầu thế giới, cùng sự suy giảm trong chất lượng cuộc sống của người dân các nước đó.
Bộ máy chính quyền cũng không khá khẩm hơn là bao khi sự quan liêu, tham nhũng xảy ra ở khắp mọi nơi. Không thể "đốt lò", vì có "đốt" mãi cũng không hết "củi".
Nghiêm trọng hơn, sự suy thoái của các nền kinh tế đã kéo theo một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Khủng hoảng kinh tế, chiến tranh vẫn đang oanh tạc khắp mọi ngóc ngách, dịch bệnh vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn, cùng với biến đổi khí hậu, đất đai tài nguyên bị tàn phá - hậu quả của những cuộc thử nghiệm vũ khí không ngừng nghỉ, cùng số lượng bom đạn và vũ khí sinh học được sử dụng nơi chiến trường, đã dẫn đến một thứ còn khủng khiếp hơn cả - nạn đói.
Hai năm sau chiến tranh, số người thiệt mạng đã lên đến con số hàng trăm triệu, ghi nhận tại nơi hậu phương với những cái chết vì đói rét - không tính đến số người đã hi sinh trên chiến trường. Con số này nhiều hơn bất kì nạn đói nào từng được ghi nhận hàng trăm năm trở lại đây.
Đời sống nhân dân nhiều nước trên thế giới khốn khổ đến tột cùng khi chìm trong chiến tranh, dịch bệnh, đói rét.
Nhưng dù tình thế đã nguy cấp đến như vậy, chính phủ nhiều nước trên thế giới vẫn không từ bỏ tham vọng kiểm soát người dân đến mức cực đoan. Bộ máy chính quyền thay vì tìm cách phát triển và thay đổi để hoàn thiện hơn, chăm lo cho đời sống nhân dân, lại trở thành chế độ độc tài quân sự cực đoan với hi vọng kiểm soát hoàn toàn cục diện chiến tranh, cứu vớt đất nước đang trên đà sụp đổ. Thậm chí, ở một số nước, các phe cánh đối lập với chính quyền dường như cũng trở nên manh động hơn bao giờ hết. Với khát khao nắm quyền làm chủ, được bao bọc trong một tư tưởng chính nghĩa - bất mãn với đường lối sai lệch của chính phủ, phe đối lập đã tiến hành đảo chính hòng giành quyền điều hành đất nước.
Hỗn loạn.
Sự hỗn loạn bao trùm toàn bộ thế giới: dịch bệnh chưa được giải quyết dứt điểm hoàn toàn dù đã sáu năm kể từ khi đại dịch bùng phát, chiến tranh thế giới kéo dài, khủng hoảng suy thoái ở nhiều quốc gia đi cùng nạn đói khiến không biết bao nhiêu người bỏ mạng, chính phủ không những không thể chăm lo đời sống cho nhân dân mà còn lâm vào cuộc tranh giành quyền lực với phe cánh đối lập.
Trái Đất cũng ngày càng trở nên hoang phế khi bị tàn phá hết sức nặng nề, cạn kiệt về tài nguyên và sự sống.
Kết cục chờ đón nhân loại trên Trái Đất dường như chỉ có một.
Tháng 12 năm 3362, như không thể tiếp tục chịu đựng được nữa, mẹ thiên nhiên giáng xuống Trái Đất một hiện tượng kỳ lạ - một cơn mưa kéo dài cả tháng cuối cùng trong năm.
Thời gian đầu, tuy cảm thấy cơn mưa này có chút lạ, khi toàn thế giới đều đổ mưa chứ không phải riêng bất kỳ vùng lãnh thổ nào, một cơn mưa dẫu không quá lớn, song lại không tạnh. Nhưng vì vấn đề mưu sinh, và do chiến tranh vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, sau vài ngày, nhân loại lại tiếp tục sinh hoạt bình thường dưới cơn mưa.
Thế nhưng, loài người nhanh chóng nhận ra rằng đây không phải là một cơn mưa bình thường.
Đầu tiên, những người bị ảnh hưởng rõ ràng nhất là những người đang phải chiến đấu với căn bệnh từ đại dịch đã bùng phát cách đây sáu năm. Nếu là người đang trong quá trình ủ bệnh, việc dính phải cơn mưa này sẽ khiến cho quá trình phát bệnh của họ bị rút ngắn, nhanh chóng bước vào thời kỳ phát bệnh. Còn nếu là người bệnh đã bắt đầu xuất hiện triệu chứng bệnh, những nốt mẩn đỏ trên người họ sau khi dính mưa sẽ trở nên nghiêm trọng hơn trước, dẫn đến thời điểm tử vong nhanh hơn so với thông thường. Thậm chí, một số trường hợp đã được chữa khỏi bệnh vẫn có thể bị tái nhiễm. Và đặc biệt là các loại vaccine hay thuốc được sản xuất ra cũng chẳng thể đẩy lùi căn bệnh được nữa.
Tuy nhiên, không chỉ có những người mắc phải vi khuẩn "S.56" mới bị ảnh hưởng bởi cơn mưa kỳ lạ này, mà kể cả những người không mang mầm bệnh cũng có thể trở thành nạn nhân của cơn mưa. Nhân loại sau khi tiếp xúc với nước mưa, dù chỉ là một hạt nhỏ nhoi, cũng có phần trăm rất lớn là sẽ lên cơn sốt kéo dài khoảng một tuần. Suốt khoảng thời gian đó, mọi biện pháp hạ sốt hoàn toàn không có tác dụng, dẫn đến việc người bệnh sẽ tử vong sau khoảng năm đến bảy ngày. May mắn thay, không phải tất cả những người phát sốt sau khi dính mưa đều sẽ tử vong, theo các số liệu được ghi nhận (có thể không hoàn toàn chính xác), khoảng 20-30% những người phát sốt sẽ tự động khỏi sau một tuần mà không cần bất kỳ một loại thuốc men nào, cũng không để lại di chứng gì.
Đến giữa tháng 12, số lượng người chết vì cơn mưa đã được ghi nhận lên đến gần nửa tỷ, vượt qua số lượng người chết kể từ khi dịch bệnh bắt đầu vào năm 3556, thậm chí có thể sánh ngang với những dịch bệnh đáng sợ như "Cái chết Đen" vào thế kỷ XIV hay những đợt bùng phát dịch đậu mùa đã xuất hiện từ năm nghìn năm trước.
Dù vẫn có những trường hợp đặc biệt những người dù đã tiếp xúc với cơn mưa nhưng lại hoàn toàn không chịu bất kỳ ảnh hưởng nào, thế nhưng số lượng những trường hợp như thế là vô cùng ít ỏi.
Mặt khác, cơn mưa kỳ lạ kéo dài xuyên suốt tháng cuối năm kia còn khiến cho thiên nhiên trên Trái Đất, thứ vốn đã bị tàn phá nặng nề, giờ đây lại càng trở nên hoang phế và điêu tàn. Những cánh rừng từng xanh ngút ngàn, những dòng sông, con suối từng trong lành nay đã chỉ còn là trong ký ức - những hàng cây trơ trọi, bậc rễ, những nguồn nước bị ô nhiễm trầm trọng, đến mức có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Thậm chí, trận mưa kéo dài đằng đẵng suốt cả tháng trời ấy còn biến đổi phần lớn thổ nhưỡng, khiến rất nhiều đất đai đã không còn khả năng canh tác. Muôn thú không còn nơi sinh sống, nhân loại cũng bị hạn chế nguồn nước và lương thực để sinh hoạt, Trái Đất rơi vào tình trạng báo động hơn bao giờ hết.
Cơn mưa kỳ lạ mang tới những hệ lụy không ngờ, ngay cả các nhà khoa học cũng không thể lý giải vì sao một cơn mưa lại có thể biến đổi hành tinh xanh đến như thế, và đẩy nhân loại trên Trái Đất tới ngưỡng cửa của thảm cảnh tồi tệ nhất trong lịch sử.
May mắn thay, dường như Chúa cũng không lấy đi tất cả của nhân loại, khi một phép màu đã xảy ra.
Một ngày đầu xuân năm 3363, xuất hiện một người với sức mạnh vượt xa nhân loại bình thường, thậm chí có thể lật đổ một tòa nhà chọc trời. Sau người nọ, những người mang siêu năng lực vượt trội khác lần lượt xuất hiện.
Từ những điều tra và nghiên cứu của các cơ quan, những người mới xuất hiện này, hay, "người biến dị", vốn đều có xuất phát là nhân loại bình thường. Song, sau khi trải qua cơn mưa kỳ lạ vào cuối năm 3362 và sống sót qua khỏi cơn sốt, họ bỗng trở nên khỏe mạnh, dẻo dai, và có thể chất vượt trội hơn người bình thường.
Đặc biệt hơn cả, là mỗi người trong bọn họ lại còn sở hữu thêm một siêu năng lực cho riêng mình.
Càng ngày càng có nhiều những "người biến dị" bộc phát siêu năng lực của mình, từ khả năng bay lượn như chim trên bầu trời, đến hô mưa gọi gió, hay làm bạn với muôn loài...
Những tưởng những siêu năng lực này sẽ mở ra một cánh cửa dẫn đến một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân loại. Nhưng sự thật lại chẳng hề đẹp đẽ như thế, những "món quà trời ban" ấy thậm chí còn mang đến cho nhân loại những bi kịch khủng khiếp hơn bảy năm qua.
Thế giới vốn đã suy kiệt đến cùng cực, sau khi trải qua những dịch bệnh hay những biến đổi do chiến tranh, vũ khí sinh học và hạt nhân, gây ra, nay đã chỉ còn là một ánh lửa tàn trước gió. Chính phủ chỉ chăm chăm vào chiến tranh mà không để ý đến người dân, người dân vì thiếu thốn lương thực và nguồn nước nên quay sang cắn xé nhau. Nhân loại cứ thế lao vào cuộc chiến vô tận, để tranh giành tất cả những thứ mà họ cho là còn "tốt", là còn "lành lặn". Sự xuất hiện của người biến dị càng đẩy những xung đột này lên đến đỉnh điểm, khi với những lợi thế vượt trội về thể chất, và cả những "dị năng" kia, họ hoàn toàn áp đảo những nhân loại bình thường, và cũng không hề ngần ngại đả thương, hay giết chóc để giành được lợi ích.
Biển lửa, chết chóc, và tang thương không chỉ diễn ra ở những vùng chiến trận, mà bao trùm mọi ngóc ngách trên toàn thế giới.
Đến đầu năm 3364, dân số trên Trái Đất đã giảm mạnh xuống dưới ba trăm triệu người, từ con số bốn tỷ vào trước dịch bệnh năm 3356. Đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, khi chiến tranh trên toàn thế giới vẫn còn kéo dài, cùng với sự xuất hiện của những người biến dị, nạn đói, biến đổi khí hậu... Những cá nhân thức thời nhận thấy rằng đã đến lúc họ cần phải ngồi lại, và đề ra một giải pháp chung vì hòa bình và tương lai của nhân loại.
Một hội nghị được tổ chức giữa những cá nhân, tổ chức và phe cánh có sức ảnh hưởng nhằm hướng đến giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.
Hội nghị được tổ chức tại phòng họp lớn của một tòa lâu đài đã đổ nát của lục địa già. Trải qua hàng tháng trời, mấy chục ngày đêm, cả ngàn yêu cầu và đề nghị được cân nhắc hoặc bác bỏ cùng nhiều phiên đàm phán, vào ngày 19 tháng 05 năm 3364, một Hiệp ước hòa bình đã được ký kết giữa các bên đại diện - những người đứng đầu của các quốc gia, những nhà tài phiệt, và cả những người biến dị mạnh mẽ nhất.
----
Theo đó, Hiệp ước hòa bình với tên gọi "Hiệp ước Paxaeterna 64" có nội dung chính như sau:
- Thứ nhất, tất cả các bên lập tức đình chiến ngay lập tức sau khi hiệp ước được ký kết.
- Thứ hai, hoạt động trao trả tự do tù binh phải được diễn ra trong vòng một tuần kể từ khi hiệp ước được ký kết.
- Thứ ba, do các vùng lãnh thổ trên Trái Đất đã bị thu hẹp sau khoảng thời gian dài bị tàn phá bởi con người, dịch bệnh, chiến tranh và thảm họa thiên nhiên, tất cả nhân loại còn sót lại trên Trái Đất sẽ tập trung chung sống hòa bình ở phía Đông lục địa Á-Âu - nơi có khả năng sinh tồn cao nhất.
- Thứ tư, do sự khác biệt về lý tưởng, các bên đại diện được chia thành hai chủ nghĩa riêng biệt trên toàn lãnh thổ, với hai chế độ chính trị khác nhau. Theo đó:
+ Một bên muốn tiếp tục xây dựng và phát triển xã hội dựa trên những giá trị cốt lõi cũ - quốc gia, quân sự, và chính trị. Từ đó thành lập nên nhà nước Myrralin, theo chế độ chính trị Cộng hòa Lập hiến Tổng thống, với Tổng thống là ông Lee Dongmin và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là ông Park Chunghee.
+ Một bên mưu cầu sự tự do và bình đẳng ở mức cao hơn, khi ở thời điểm hiện tại, ngay cả người bình thường cũng sở hữu những khả năng vượt trội. Từ đó thành lập nên Liên minh tự do Velkaith, đề cao sự tự do của nhân loại, với thủ lĩnh liên minh là bà Vesna Vojnovíc.
+ Lãnh thổ của hai bên được xác định và xây dựng ở khu vực vĩ độ 46° Bắc đến 57° Bắc và kinh độ 111° Đông đến 120° Đông (khu vực vùng Baisibaburyak).
Bản đồ phân chia lãnh thổ Myrralin và Velkaith.
+ Tất cả những khu vực không thuộc vùng lãnh thổ của hai phe được gọi là vùng Vastitās.
- Thứ năm, hai vùng lãnh thổ mới phải dồn toàn lực tập trung vào tái xây dựng chỗ sinh sống cho người dân, ưu tiên đảm bảo an toàn và chất lượng sống cho nhân loại.
- Thứ sáu, trong vòng một tháng kể từ khi hiệp ước được ký kết, bản hiến pháp, luật lệ và quy định đầu tiên của hai vùng lãnh thổ mới phải được hoàn thành. Trong vòng sáu tháng kể từ khi hiệp ước được ký kết, bản chỉnh sửa và hoàn thiện của hiến pháp và luật pháp phải được hoàn thành.
- Thứ bảy, trong vòng mười tám tháng kể từ khi có bản hiến pháp và pháp luật đầu tiên của hai vùng lãnh thổ mới, những người sống sót phải chọn gia nhập một trong hai vùng lãnh thổ.
- Thứ tám, cùng với sự chung sống hòa bình như đã thỏa thuận, cũng như sự ra đời của hai vùng lãnh thổ mới, đồng tiền chung cũng đã được quyết định thông qua hội nghị, nhằm thúc đẩy giao thương giữa hai bên. Theo đó:
+ Đồng Serathi là đồng tiền có mệnh giá thấp nhất, được đúc bằng đồng, với mặt trước là ký hiệu các số 1, 2, 5, 10, 20 và 50 để thể hiện mệnh giá, và mặt sau là cách điệu quốc huy của hai quốc gia Myrralin và Velkaith.
+ Đồng Caerin là đồng tiền có mệnh giá thấp hơn, được đúc bằng bạc với mặt trước là ký hiệu các số 1, 2, 5, 10, 20 và 50 để thể hiện mệnh giá, và mặt sau là cách điệu quốc huy của hai quốc gia Myrralin và Velkaith. Một đồng Caerin tương đương một trăm đồng Serathis.
+ Đồng Orinth là đồng tiền có mệnh giá cao hơn, được đúc bằng đồng với hai mặt là là quốc huy của hai quốc gia Myrralin và Velkaith. Một đồng Orinth tương đương một trăm đồng Caerins.
+ Việc quy đổi giá trị tài sản và tiền bạc cũ sang đồng tiền mới được thực hiện theo bảng sau.
Bảng giá trị quy đổi từ tiền tệ cũ sang đồng tiền mới.
- Thứ chín, mọi hoạt động liên quan đến an sinh xã hội, đời sống nhân dân sẽ được hai bên giám sát chéo, nhằm đảm bảo nhân loại còn sống sẽ có một cuộc sống tốt đẹp nhất.
----
Hiệp ước Paxaeterna 64 chính thức được ký kết, là dấu chấm hết cho một thời kỳ mục nát và mở ra kỷ nguyên mới cho nhân loại. Liệu đây có thể là tia hy vọng cho một tương lai, nơi nền văn minh của loài người trở lại với thời kỳ huy hoàng và mạnh mẽ? Hay thế giới vẫn sẽ chìm trong bóng tối của những bi kịch không thể khắc phục do thảm họa mang lại?
Không một ai có thể biết trước được câu trả lời.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro