Phần V Bloody Desert - Chương 3, 4

Chương 3.

Tên thủ lĩnh có vẻ không vội vàng gì mấy, hắn đi ra ngoài châm điếu thuốc hút trong khi trong nhà vẫn vang lên tiếng đòn roi của mấy tên lính đang đánh đập gia đình kia. Tôi ngóc đầu lên thấy hắn cùng vài tên nữa ở chỗ chiếc xe, còn tôi đang ở trên nóc nhà đằng sau hắn, ở vị trí này tôi có thể xử lí gọn cả bọn nhưng Leon vẫn bảo tôi án binh bất động, hy vọng bọn chúng không tàn ác đến nổi giết cả gia đình kia.

May sao hút xong điếu thuốc, hắn vẩy tay bảo cả bọn lên đường, bọn chúng lại xô ra leo lên xe lái về hướng sa mạc. Đợi chúng đi khuất chúng tôi nhảy xuống vào trong nhà thì thấy ông chồng bị đánh khá nặng đã bất tỉnh nhân sự, tôi mở nắp hầm gọi những người kia lên rồi sơ cứu cho ông chồng.

Chắc cũng chẳng còn nghi ngờ gì những người này gì nữa. Leon dặn dò họ cẩn thận rồi cả nhóm gói ghém trang thiết bị tiếp tục lên đường. Lúc ra khỏi nhà Jake thúc chúng tôi đi trước, tôi quay lại thấy anh ta đang cài một quả mìn ở góc căn nhà, phòng khi...

Trời cũng đã sắp sáng, chúng tôi hành quân nhanh vào thành phố không trở ngại gì mấy. Cairo thất thủ cũng đã lâu và bao gồm nhiều lực lượng hỗn tạp đang phân chia quyền lực ở các phân khu gồm phiến quân, tàn quân chính phủ, dân chúng và lũ rab. Họ chặn đường phố lại bằng xe cộ, thép gai, đào nhiều hầm hào để chiến đấu, giữa các nóc nhà thì bắt các tấm ván, trong nhà thì đục thủng tường để di chuyển, bên trong hỗn loạn vô cùng, đến nơi chúng tôi mới thấy không có cách gì đi được đến Bảo Tàng mà không bị phát hiện hay giao tranh.

Thấy tình hình khá căng nên chúng tôi gọi về căn cứ xin chỉ đường từ máy bay không người lái, sau một hồi phân tích thì chỉ có cách duy nhất là đi vào các con hẻm nhỏ đầy rab, các lối đi khác hầu như đã bị phong tỏa.

Chúng tôi chẹp miệng kiểm tra lại đạn dược, giắt dao găm sau lưng rồi xếp đội hình hàng một tiến vào. Cửa ngõ thành phố là một đại lộ lớn với nhiều hàng rào đồn bốt, xác xe tăng lẫn ô tô cháy đen bị bỏ lại khắp nơi, cả nhóm thấp mình len lỏi qua đống hổ lốn đó. Lợi dụng trời chưa sáng hẳn, chúng tôi thấy con rab nào thì bắn hạ ngay con nấy chứ không muốn dây dưa. Đi được một quãng khá xa thì chỉ dẫn chúng tôi quẹo vào một hẻm nhỏ rộng chỉ chừng ba mét, bên trong tối đen như mực, mùi xác thối xông lên nồng nặc còn ruồi muỗi thì đi đến đâu chúng túa lên đến đấy tối tăm cả mặt mày.

Wings lấy chiếc ống nhìn đêm nhìn vào trong thấy vài con rab thì nhanh tay bắn vỡ sọ rồi bảo cả nhóm đi vào, hai bên của con hẻm có nhiều ngõ nhỏ nên cứ đi một đoạn chúng tôi phải ngừng lại thò đầu ra ngó nghiêng, hỏi sở chỉ huy kiểm tra rồi mới đi tiếp được.

- Bao xa nữa? 

Chris hỏi Leon.

- Khoảng hai cây số nữa. 

Anh ta đáp.

- Sẽ không kịp trước khi trời sáng đâu. 

Tôi bảo .

Mọi người đang hội ý thì ở phía xa xa vọng lại tiếng bước chân gấp gáp có vẻ như ai đó đang chạy tới, nghe thấy tiếng động chúng tôi liền tản ra nấp vào ô cửa nhà và góc tường. Tôi ló đầu ra nhìn thấy một bóng đen nhỏ thó đang chạy trối chết dọc con hẻm về phía chúng tôi. Chris nháy mắt hỏi tôi có nguy hiểm không, tôi liền giơ nắm đấm lên báo cứ giữ nguyên vị trí.

Tiếng vọng to dần rồi hắn cũng chạy đến, một tên người bản địa chạy vụt qua nhanh như cắt, ở sau là hai con rab đang đuổi sát nút, tôi thấy vậy liền nép mình ẩn tránh đợi chúng vụt qua rồi thò súng ra định bắn hạ nhưng Leon ở bên kia liền giơ nắm đấm lên ý bảo mặc kệ.

Hai con rab đuổi theo đã rất sát, chỉ hai ba bước chân nữa là tóm được tên kia nếu tôi không ra tay thì hắn chết chắc nhưng làm vậy cũng sẽ hại cả nhóm vì chưa biết tên kia là người thế nào, bất đắc dĩ tôi hạ súng xuống nhắm nghiền mắt coi như không thấy gì.

Tên kia coi bộ chỉ chạy được đến đầu ngõ rồi thét lên vài tiếng kinh hoàng trước khi bị hai con rab xâu xé, chúng tôi tranh thủ lúc bọn chúng đang say mồi mà tiếp tục đi sâu vào trong con hẻm tối tăm. Trong ánh đèn xanh lét của kính nhìn đêm dưới chân tôi la liệt là xương xẩu chuột bọ, những con chuột to dễ đến bằng bắp chân kêu chin chít vang vọng, chúng tôi đi đến đâu chúng liền lẩn đi đến đấy nhưng chưa kịp dứt bóng lại chạy ra kêu ỏm tỏi.

Đi được một lúc nữa thì ra đến một con đường lớn hơn với nhiều chiếc xe cháy rụi lẫn bao cát, có vẻ như là một chiến trường cũ. Jake lấy ống nhòm ra quan sát thì thấy có ánh đèn cách đó không xa chắc là một chốt gác. Chúng tôi gọi về sở chỉ huy xin chỉ dẫn thì họ bảo cố vượt qua bên đường rồi trèo lên nóc nhà để đi về hướng tây.

Jake báo có vài ba tên lính đang gác trên chốt muốn qua được có lẽ phải bò dưới lòng đường, lợi dụng mấy cái xe cũ mà ẩn mình, thỏa thuận xong đợi anh ta ra lệnh thì Chris vọt lên trước bò từ hẻm ra đến trạm xe bus cũ, vừa bò vừa nghe hiệu lệnh của Jake, cứ đợi tên kia lơ đi thì mới được di chuyến.

Cũng may bọn lính gác kia cũng chẳng canh phòng cẩn mật gì cho lắm, chỉ đi tới đi lui đốt thuốc nên phút chốc Chris đã sang được bên kia đường. Ba người chúng tôi lần lượt cứ thể lẻn sang mà bọn chúng chẳng để ý gì.

Đến chỗ góc tường Leon đứng tấn dùng hai tay bẩy Jake lên trên lan can lầu một của căn nhà ven đường rồi Jake từ từ kéo từng người một lên, tới lượt tôi vừa quăng súng lên trước rồi định thì Chris nói khẽ:

- Đứng im! Đừng quay đầu lại!

Linh tính mách bảo có chuyện chẳng lành, trời thì cũng tờ mờ sáng đã thấy rõ mấy ngón tay , không lẽ bọn lính gác phát hiện ra rồi sao. Tôi nuốt nước bọt cái ực, tay dò xuống đùi định rút khẩu súng lục ra, nhìn lên thì thấy Wings đang giương khẩu súng nhắm về phía con hẻm.

- Phựt! 

Viên đạn lao qua nòng súng giảm thanh bay về phía bên kia của con đường trúng vật gì đó bịch một cái rồi trả lại màn đêm tình lặng, tôi quay lưng lại nhìn thì thấy con rab đã đổ gục, hóa ra là bọn chúng đuổi theo chúng tôi từ nãy đến giờ.

Lo sợ vẫn còn vài con nữa tôi nhanh chóng trèo lên trên cùng mọi người rồi tiếp tục di chuyển. Nóc nhà ở Ai Cập thường được thiết kế bằng phẳng, hiện tại đây là cách di chuyển an toàn nhất nên họ nối từ nhà này sang nhà kia bằng những tấm ván gỗ. Vì thế chúng tôi đi lại cũng không khó khăn gì mấy, có điều nhiều chỗ họ chỉ để hờ mỗi một cây gỗ cũ không khác gì cầu khỉ ở miền tây nên không cẩn thận sẽ rơi xuống dưới.

Dọc đường và giữa những con hẻm thỉnh thoảng có vài con rab, nghe động liền rú lên láo liên tìm mồi nhưng có vẻ chúng cũng biết không bắt được chúng tôi nên đành giương mắt mà nhìn. Chúng tôi lúc nhảy, lúc trèo, lúc bò một hồi thì trời cũng đã gần sáng và viện bảo tàng cũng đã trong tầm mắt. Cả nhóm không ai bảo ai đều nhanh chân để đến đích trước khi trời sáng. 

Lúc bạn hấp tấp cũng chính là khi sai lầm xảy ra.

Tôi đã nói ở trên, các tấm ván gỗ hầu hết đã cũ kĩ, phơi ngoài mưa nắng cũng đã lâu thành ra nhìn thì chắc chắn nhưng đặt chân lên mới biết được, thông thường chúng tôi đi từng người một, người này qua xong mới đến người kia. Jake đi ngay sau lưng tôi không biết vội vàng thế nào mà bước chân lên khi tôi chưa xuống khỏi. 

Tiếng "rắc" khô khốc vang lên và miếng ván gãy làm đôi, tôi chếnh choáng ngã tụt xuống nhưng vẫn kịp bấu vào thành của bức tường còn Jake thì rớt bịch xuống dưới.

Mấy người còn lại liền kéo tôi lên còn Jake thì nằm bẹp dưới con hẻm sâu chừng bốn mét. Leon gọi khẽ:

- Này! Jake! Này!

Anh ta tuy đau nhưng vẫn vẫy tay báo không sao rồi lồm cồm bò dậy. Chris thấy vậy thì lấy cuộn thừng ra quấn quanh người mình rồi quăng một đầu xuống dưới để Jake quấn quanh rồi kéo lên. Lúc này trời đã sáng hẳn mấy con rab nghe động cũng chạy tới, tình thế khá căng, may chúng tôi nhanh tay, lấy hết sức bình sinh mà kéo nên đã đưa Jake lên an toàn.

Chúng tôi lủi thủi đi thêm một lúc nữa thì đã thấy viện bảo tàng bên kia đường, có điều ở giữa là vài chục con rab đang ngáo nghiêng đi lại. Từ đây sang đến cửa chính chừng gần một trăm mét, nếu cả bọn di chuyển nhanh vừa đi vừa bắn chắc cũng không khó khăn gì mấy.

Chris kiểm tra vệ tinh thấy không có phiến quân gần đây nên cả nhóm liền đu xuống dưới dàn đội hình mỗi người nhắm về một hướng lợi dụng vật cản trên đường để di chuyển về bảo tàng. Tính chất của lũ rab là bầy đàn nên cho tới khi bị chúng phát hiện tốt nhất là không nên bắn bất cứ con nào vì có một con bị hạ cả bọn sẽ nhao nhao lên lùng xục. Chúng tôi đi được nửa đường mới bị bọn chúng phát hiện nên nổ súng, lúc này cả đàn rab trên đường bị đánh động liền đổ dồn về phía chúng tôi từ bốn phương tám hướng.

Chúng tôi kiên trì vừa bắn vừa giữ đội hình di chuyển nhưng đến khuôn viên của bảo tàng khi không còn gì che chắn thì vỡ trận, đám rab đổ đến quá nhiều nên bắn không xuể, nếu cố gắng nhắm vào đầu thì khá lâu còn bắn vào người chỉ làm bọn chúng chậm lại đôi chút. Bọn rab chỉ cách chúng tôi chừng mươi mét, cứ bắn được con này thì con khác đã lại gần, gần đến nỗi chẳng ai kịp thay đạn mà phải lấy súng lục ra tiếp tục phản kháng.

Tôi thấy cánh cửa viện bảo tàng không còn bao xa nên bảo mọi người chạy đến, rút dao ra tôi đâm mấy con rab mở đường, Chris thì bắn khóa đuôi. Vừa chạy lên đến bậc thềm tôi liền tung cước đá vào cánh cửa nhưng vì nó quá to nặng, vả lại lâu ngày không mở ra nên chỉ bật ra được một khúc vừa một người lách. Tôi tiếp tục dùng hai tay đẩy mạnh vào cửa rồi ra hiệu cho mấy người kia chui vào, Jake chạy tới hộ tôi đẩy cửa nhưng thời gian chẳng còn là bao nên tôi thét lớn:

- Vào đi! Nhanh!

Thấy Chris cũng chẳng cầm chân được bao lâu nữa nên tôi tranh thủ thay hộp tiếp đạn vào khẩu AK bắn chặn rồi hối Chris vào Leon chui vào, hai người kia chạy tới thấy cửa vẫn không mở được nên cởi balô ném vào trong trước xong lách vào sau. Tôi giương súng bắn hết băng đạn mà bọn chúng vẫn còn nhiều quá nên cũng cuống cuồng tháo chạy. Khổ nỗi ông Jake bên trong không biết mắt nhắm mắt mở như thế nào mà tôi chưa chui lọt ông ấy đã đẩy cửa vào thành ra tôi bị kẹt chui vào cũng không được mà rút ra cũng không xong.

Bọn rab bên ngoài kia đã xô tới, tôi bị kẹt ở giữa hai mép cửa, một tay ở trong một tay ở ngoài thành ra không cựa quậy gì được. Wings thấy vậy thì nắm lấy tay cố kéo tôi vào trong khi mấy ông tướng kia thì đang hò nhau bẩy cửa ra. Trong phút chốc tôi thấy nếu mà bẩy cửa ra cho tôi chui lọt thì bọn rab kia cũng sẽ vào theo nên bảo mọi người cứ mặc tôi rồi cố tìm cách lách ra ngoài.

Quay đầu lại thấy bọn chúng đã đến tôi giương súng lục bắn gục năm sáu con. Leon bên trong thấy tôi bị vướng chỗ cái hộp tiếp đạn đeo trên ngực nên rút ra giùm tôi, vừa thoát ra ngoài được cũng là lúc bọn rab mấy chục con lố nhố xô đến, cả cuộc đời tôi chưa bao giờ một lúc phải đối phó với cả bọn như thế này cả nên biết chắc là lành ít dữ nhiều, chỉ kịp bảo bọn họ mau chóng đóng cửa lại.

Con rab đầu tiên xô đến ngoác cái mồm đen sì ra định đớp bị tôi tung một đạp ngã ngửa ra sau, mấy con khác từ sau lao đến vấp phải nó cũng ngã nháo nhào. Tôi thoáng nghĩ cứ để bọn nó vây lại kiểu gì cũng không chống chọi nổi nên tìm đường tháo chạy, nhìn quanh chỉ thấy tượng con nhân sư cao bốn mét án ở ngay tiền sảnh nơi chân cầu thang là khả thi, tôi vừa chạy vừa xô mấy con rab định bụng trèo lên trên, còn cách con nhân sư mấy bước vô phước tôi bị tóm lại. Một con rab từ phía sau túm được vai tôi rồi cắn một phát vào bắp tay đau thấu xương, theo phản xạ tự nhiên tôi giật cùi chỏ thật mạnh vào đầu nó khiến nó bật ra kéo theo cả một mảng thịt.

Cũng chẳng có thời gian mà xem xét liệu có bị làm sao vì lại thêm vài con rab án ngữ ngay trước mặt, tôi tung vội một cú đấm hạ gục con gần nhất rồi quay giò lái đạp văng thêm hai con nữa. Thấy bức tượng đã ở trước mặt tôi liền phóng lên, chân thì đạp vào bệ, tay thì bám vào đuôi nó rồi nhảy lên trên lưng. Bọn rab ở phía sau thấy vậy đâu dễ gì bỏ miếng mồi ngon, một con cũng nhảy với theo túm lấy chân tôi mà lôi lại. Đứng ở trên lưng bức tượng chẳng có chỗ gì bám víu, con nhân sư tuy to nhưng lưng bằng đá bóng nhẵn, thế là tôi ngã sấp cả mặt trong khi con rab vẫn đang lôi tôi xuống dưới. Lấy hết sức bình sinh tôi đạp vào đầu nó, đến lần thứ ba nó mới tuột tay ra.

Vừa thoát khỏi con rab tôi tiếp tục trèo lên trên đầu con nhân sư, từ trên này cao phải hẳn bốn mét nhưng bọn rab đã vây kín bức tượng, giây lát sẽ ùn lên tới đây. Tôi tranh thủ nhét băng đạn vào khẩu súng lục rồi bắn hạ những con đang mon men trèo lên lưng con nhân sư.

Tình thế lúc này ngàn cân treo sợi tóc, nhảy xuống cũng chết mà đứng trên này cũng chết, chưa kịp nghĩ ra phải làm sao thì ở lầu hai của bảo tàng tôi nghe có tiếng súng nổ, mấy người đồng đội ở bên trong liền thò súng ra bắn giải vây cho tôi. Bọn rab tuy đông là thế nhưng nào có đỡ được súng đạn, mới vài loạt đã vơi quá nửa. Chớp thời cơ tôi nhảy xuống chạy lại chỗ cửa sổ nơi Jake đang thả tấm mành che xuống để kéo tôi lên.

Leo lên đến nơi cả nhóm mới ngưng bắn, thấy tôi máu me đầm đìa Chris liền xé áo lấy băng gạt bảo tôi ấn xuống rồi cùng Wings băng lại trong khi hai người kia có vẻ ái ngại. Chris băng bó xong cho tôi mới mở lời:

- Không sao đâu, cậu ấy không bị biến thành chúng được.

- Anh nói vậy là sao? 

Leon tỏ vẻ không hiểu.

- Cậu ta bị nhiễm virus từ lâu rồi, chỉ có điều là không lên cơn như bọn điên ngoài kia.

- Không thể nào, anh nói vậy không lẽ.. không lẽ chúng ta đã có thể ngăn chặn dịch bệnh hay sao? 

Jake ngạc nhiên.

- Không! Chuyện dài dòng lắm, hai người cứ yên tâm tiếp tục nhiệm vụ đi, có thể báo cáo về nếu hai anh không tin tưởng.

- Các anh yên tâm, tôi không biến đổi được đâu, tôi cũng không biết tại sao, các nhà khoa học cũng không biết tại sao, chuyện này chúng ta sẽ nói sau. 

Nói đoạn tôi nhặt khẩu súng rồi đứng dậy.

Khu bảo tàng này là một tòa nhà kiến trúc cổ kiểu Tây phương được xây dựng từ hồi thuộc địa lại trải qua biến cố nên nhìn chẳng khác gì nhà ma. Mái vòm ở trên thì dột nát, sàn nhà đầy bụi bẩn và kính vỡ còn cổ vật thì tất nhiên đã mất cả rồi, chỉ còn chừa lại mấy bức tượng đá to lớn và phù điêu có cổ ngữ tượng hình mà người ta không vác đi được.

Chúng tôi đi xuống tầng trệt nơi trưng bày chính thấy la liệt nhiều quách đá cổ trống rỗng bị bỏ lại, tòa nhà chẳng có điện đóm gì, chỉ có chút ánh sáng le lói từ trên rọi xuống qua mấy cái giếng trời bằng kính phủ đầy rêu bụi.

Tôi đang thẩn thơ nhìn quanh thì đá phải một vật gì đó dưới sàn trắng trắng, bật đèn pin lên soi thì giật cả mình vì đó là một xác ướp khô khốc, mồm há rộng còn hai hốc mắt thì đen thui. Vải liệm quấn quanh xác ước này bị cắt tơi tả, giữa bụng thì bị mổ một đường dài có lẽ do bọn kền kền hôi của cắt ra để tìm vàng bạc giấu bên trong.

Không có nhiều thời gian để tham quan vì bọn rab ngoài kia chẳng biết xông vào lúc nào, chúng tôi gài vài quả mìn claymore ngay cửa rồi kéo nhau đi ra phía sau tìm phòng nghiên cứu và phục hồi.

Bên trong căn phòng này tối như mực nên chúng tôi phải bật đèn pin lên dò dẫm, các trang thiết bị và tủ kệ để nghiên cứu cổ vật đều đã bị phá hỏng hết, theo chỉ dẫn thì ở đây có một phòng ngầm kín để cất giấu cổ vật thật và có giá trị. Thông thường 80% đồ vật trưng bày ở bảo tàng là đồ nhái hoặc phục chế, còn đồ thật được giấu ở nơi khác an toàn hơn. Chẳng khó mà tìm ra cánh cửa xuống hầm giấu sau một chiếc tủ lớn vì bọn phiến quân rời đi chẳng thèm đóng lại.

Chúng tôi lò do bước xuống một căn hầm cũ xây bằng đá cẩm thạch, đường hầm khá rộng, ở giữa có một đường ray để chuyển cổ vật nặng xuống dưới còn hai bên là cầu thang. Đi chừng ba mươi bước thì chúng tôi xuống đến nơi có một cánh cửa thép đã bị nổ mìn vỡ tung ra, vì bọn chúng mới đến đây chưa lâu nên bên trong tất cả dấu vết đều còn mới.

Nhiệm vụ của chúng tôi bây giờ là phải tìm hiểu xem bọn phiến quân đưa Johnny đến đây làm cái gì, nhìn quanh căn phòng rộng chừng bốn trăm mét vuông bị lục soát lung tung cả lên. Chúng tôi cũng không biết phải bắt đầu từ đâu vì trong đây có rất nhiều kệ thép và hộp thép như một kho lưu trữ, các văn tự cổ bằng giấy được đặt ở một góc, phù điêu một góc, bình gốm, đồ đồng, đồ gỗ được phân chia thành nhiều khu và theo nhiều niên đại tuy nhiên đã bị bọn phiến quân xáo trộn. Căn bản ngoài dấu vết vật bọn chúng lấy đi là một chiếc hòm thì chúng tôi chẳng có manh mối gì khác.

Dạo quanh một vòng mà chẳng biết bắt đầu từ đâu nên chúng tôi phải gọi về sở chỉ huy rồi truyền hình ảnh trực tiếp về cho họ để điều tra. Tôi ngồi xuống dựa vào một cái kệ hớp ngụm nước trong khi đợi họ đối chiếu hình ảnh với danh sách cổ vật. thì Leon đi đến:

- Cậu không sao chứ?

- Không sao, anh đừng lo.

- Có thật là cậu...

- Thật! Với vết cắn như thế này đáng lẽ giờ này tôi phải sốt và toát mồ hôi ra rồi, nhưng anh thấy đấy tôi vẫn không sao.

- Làm sao có thể như vậy cơ chứ.. Chúng tôi đã nghiên cứu rất nhiều nhưng...

- Tôi cũng không biết, tất cả các nhà khoa học ở Liên Hiệp Quốc cũng không biết, họ cũng chẳng thể nào tạo ra được vaccin từ máu của tôi. 

Tôi trả lời với hy vọng anh ta bớt phân vân.

- Có kết quả rồi! 

Jake ở đầu bên kia ngắt ngang câu chuyện rồi gọi chúng tôi lại.

Thứ chúng lấy đi là chiếc hòm phép khai quật được trong lăng mộ Pharaoh Ekhanet, trong chiếc hòm có nhiều văn tự tiên tri cổ, bình miêu sư, và các đồ dùng khác của Y sư. Ekhanet là một trong những vị Pharaoh đầu tiên của Ai Cập, ông ấy lên nắm quyền vào sự tiên tri của các công thần trong triều. Khi các vị Pharaoh qua đời theo quan niệm của người Ai Cập cổ thì họ sẽ bước qua một thế giới khác và tiếp tục sống ở thế giới đó vì vậy phải chôn theo tất cả dụng cụ, kể cả người hầu và quần thần. Chiếc hòm phép chính là hòm dụng cụ của Thái Y cũng là nhà tiên tri của Pharaoh.

Cả chúng tôi lẫn sở chỉ huy không thể hiểu tại sao chúng lại lấy những cổ vật này lại còn đem Johnny tới, đã qua mấy ngàn năm không lẽ đám cổ vật này có liên quan gì đến dịch bệnh do Johnny tạo ra?

Chương 4.

- Mọi người nghe cho rõ đây! Cho dù trong chiếc hòm kia có gì đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải bắt được Johnny nên cứ tiếp tục tiến hành công việc. Jake và Chris, hai cậu lên trên thay nhau canh gác. Wings! Cậu tìm xem quanh đây còn đường nào thoát hiểm hay không. Minh đang bị thương thì nên nghỉ ngơi còn tôi sẽ đợi chỉ thị mới của sở chỉ huy và xem xét điều tra xem còn có manh mối gì hay không? 

Leon phân chia nhiệm vụ cho từng người trong khi đợi lệnh mới, còn sở chỉ huy thì đang tiếp tục điều tra và tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn về Ai Cập Cổ Đại.

Lúc này mới gần 8h sáng, chúng tôi cả đêm qua không ngủ nên ai cũng thấm mệt, mọi người làm hết phần công việc Leon giao nhưng vẫn chưa có tin gì mới nên chia nhau ra nghỉ vì có lẽ đợi đến đêm chúng tôi mới ra ngoài được.

Tôi lúc này đang nằm dài dưới sàn gối đầu trên đống cổ vật mắt nhắm mắt mở chìm vào giấc ngủ sau khi ních chật bụng bằng mấy thỏi lương khô và nửa bi đông nước. Căn hầm này từ trên xuống dưới được làm bằng đá granit nên không khí mát lạnh, ánh sáng không lọt vào được, cả khu vực rộng lớn đầy cổ vật chỉ dựa vào ngọn đèn pin le lói chỗ Leon đang ngồi. Khi cả không gian tĩnh lặng, ánh sáng mù mờ thì các giác quan khác trên cơ thể chúng ta lại trở lên nhạy bén hơn bao giờ hết.

Trong giấc ngủ nửa tỉnh nửa mê tôi thấy quanh mình có một làn khí âm mù mờ cứ luẩn quẩn nhưng thần thức không còn đủ tỉnh táo để định dạng nó là cái gì mà cứ nhắm nghiền mắt mặc thây nó vậy. Nhưng được một lúc sau thì có một mùi ẩm mốc khá nồng xông lên mũi khiến tôi không thể nào ngủ tiếp được nữa, định bụng đứng dậy tìm chỗ khác nhưng đi đâu cũng thấy cái mùi đó không nặng thì nhẹ. Tôi nghĩ xung quanh đây toàn cổ vật cả ngàn năm tuổi, toàn thứ lấy trong lăng mộ người chết ra không có âm khí và mùi thì cũng lạ nên đành tới chỗ của Leon, ít ra có chút ánh sáng thì cũng đỡ sợ hơn phần nào.

Tôi thả balô xuống, phủi sơ lớp bụi rồi ngả lưng. Leon thấy tôi lù đù tiến lại tưởng tôi cần gì nên đưa tôi thêm mấy chiếc băng gạc để thay lớp băng đầy máu đã khô và chuyển sang màu đen. Tôi xua tay bảo không cần rồi gỡ chúng ra gói lại rồi vứt lại một góc vì giờ vết thương đã gần liền miệng rồi. Leon thấy thế có vẻ kinh ngạc nhưng cố giấu thái độ đó đi.

Tôi lại nằm xuống nhưng cái cảm giác bất ổn lành lạnh nó cứ lởn và lởn vởn thành ra đổ mồ hôi lạnh liên tục, cáu tiết tôi quyết định không ngủ nữa mà đứng dậy tìm hiểu xung quanh xem sao. Góc căn phòng có một dãy tủ tài liệu và mấy chiếc máy tính, tôi lại xem thì thấy tất cả các máy tính đều có bộ lưu điện UPS, kiểm tra thấy tất cả đều còn điện nên tôi đấu bốn bộ với nhau có lẽ dùng được nửa tiếng rồi bật máy tính lên. Bên trong máy tính có rất nhiều thông tin về cổ vật, gõ dòng chữ Pharaoh Ekhanet thì tìm được một tệp gồm nhiều tài liệu và hình ảnh được hiện ra, vì lo sợ điện hết bất chợt nên tôi báo cho Leon và Wing mang dụng cụ đến mau chóng copy gửi về sở chỉ huy.

Trong lúc copy file tôi thấy có nhiều văn tự cổ viết trên giấy gió nhưng toàn chữ tượng hình chả hiểu gì còn trong chiếc thùng kia là các lọ đựng nhiều vật chất rất lạ. Nhìn hình chụp X-Quang mà chả hiểu bên trong là gì, chỉ biết chắc chắn bên trong là vật chất có hình dạng như lòng trứng cùng một dung dịch lỏng, ngoài ra có một điều đặc biệt nữa đó là tất cả đều còn niêm phong của nhà vua. Xem qua nhật kí nghiên cứu thì chỉ thấy các vị giáo sư ghi chú rõ bằng mực đỏ là tuyệt đối không được mở ra.

Cả ba người chúng tôi dù tìm ra được chút manh mối nhưng càng cảm thấy mù mờ hơn nữa, đành chờ sở chỉ huy giải quyết. Thấy đã gần trưa mà chưa có kết quả gì tôi đề nghị họ nên sắp xếp tuyến đường cho chúng tôi đến chỗ của Johnny trước.

- Mac đây! Hiện giờ tình hình rất phức tạp, tuyến đường gần nhất đến doanh trại của bọn phiến quân phải qua nhiều khu vực kiểm soát và có rất nhiều người bệnh nên các cậu có hai sự lựa chọn, một là đi đường vòng hai là...

- Là gì?

Tôi hỏi.

- Là đường cống ngầm. Cách đây mấy năm nhà nước Ai cập vì muốn tránh tình trạng sụt lún do nước mưa của Kim Tự Tháp nên đã làm một đường cống ngầm dẫn nước mưa từ khu vực đó ra sông Nile xuyên qua thành phố, cách viện bảo tàng không xa có một miệng cống, nếu các cậu đi đường này có lẽ tránh được nhiều mối nguy trên mặt đất.

- Vậy thì cứ đi lối này thôi. 

Wings quả quyết.

- Không dễ vậy đâu, chúng ta làm gì biết dưới cống ngầm này có cái gì, hơn nữa trên mặt đất chúng ta có máy bay không người lái và hỏa lực hỗ trợ còn ở dưới này thì có chết cũng không ai cứu. 

Tôi đáp.

Cả nhóm thấy lúc này đường nào cũng khó nên cứ để đấy đã vì cũng vừa có tin đã dịch được các văn tự tiên tri của Pharaoh Ekhanet.

Câu chuyện về vị vua này kể thì dài dòng nên họ chỉ nói cho chúng tôi các ý chính, đại khái truyền thống ướp xác của người Ai Cập được xuất phát từ niềm tin là sẽ có sự sống sau cái chết, bởi vì vậy khi chết họ mới ướp xác để bảo quản thi thể và chôn theo rất nhiều vàng bạc vật dụng để người chết có thể sử dụng ở thế giới bên kia hoặc khi họ... hồi sinh.

Trong văn tự tiên tri của vị vua có một đoạn khiến chúng tôi rất bất ngờ như sau: Đến một thời điểm khi thế giới này phát triển cực thịnh thì sẽ có một cơn đại dịch xảy ra cuốn phăng đi toàn bộ nền văn hóa của nhân loại, những bộ tộc loài người phía tây và phía bắc sẽ phải chịu thiệt hại nặng nề trong khi những giống loài ở phía đông lại trỗi dậy, đây cũng là lúc Ekhanet phục sinh. Sau đó ngài sẽ ban phát sự bất tử cho những kẻ làm ngài sống dậy và phục tùng ngài. Để làm được điều này thì cần đem tên "pháp sư" đã gây ra dịch bệnh đến lăng mộ của ngài cùng bảy chiếc bình miêu sư, hắn sẽ biết phải làm gì.

Tôi nghĩ là nghe đến đây thì không chỉ chúng tôi mà tất cả những người ở sở chỉ huy đều ngoác mồm ra vì kinh ngạc, tuy nhiên bên kia giọng một người giáo sư lại vang lên tiếp diễn câu chuyện:

- Vấn đề ở đây là người hồi giáo không tin vào sự bất tử mà tin vào thiên đường của thánh Alla, có nghĩa là chỉ có cái chết mới đem họ đến được với thánh thần của họ vì vậy chắc chắn họ không tìm kiếm sự trường sinh mà mục đích là để chống lại sự sống dậy của pharaoh.

Tôi nghe đến đây càng khó hiểu hơn nữa nhưng chưa kịp hỏi thì bên kia đã có người nói ngay. 

- Như vậy chỉ cần hủy tất cả những thứ cần để hồi sinh Pharaoh đâu cần phải vất vả bắt Johnny và đem những chiếc bình kia đi làm gì. 

Vị giáo sư có lẽ cũng đón chờ câu hỏi này nên chậm rãi giải thích.

Người Hồi Giáo tuyệt đối tin tưởng vào sự tiên tri vì họ thờ phụng nhà tiên tri Mohammed. Huống hồ gì những lời tiên tri của Ekhanet đã đúng quá nửa, tuy nhiên có một điều cốt yếu quan trọng của tiên tri đó là không thể thay đổi những gì sẽ xảy ra dù làm gì đi chăng nữa. Cách duy nhất đó là để nó xảy ra sau đó triệt tiêu nó.

- Ý ông là chúng sẽ hồi sinh Pharaoh sau đó mới giết ông ta và.... cả Johnny. 

Leon hỏi dồn.

- Đúng vậy chúng sẽ ngăn chặn việc loài người tìm ra sự bất tử để bảo vệ đức tin của chúng, để làm vậy chắc chắn chúng sẽ giết Johnny khi hồi sinh được Pharaoh. 

Vị giáo sư đáp.

- Vậy thi thể của vua Ekhanet đang ở đâu?

- Thi thể của vua vẫn ở trong kim tự tháp, căn phòng chứa xác ướp của đức vua trước giờ vẫn được niêm phong chưa hề mở ra, chúng tôi chỉ mới khai quật được đồ tùy tán mà thôi, nguyên nhân chính là cấu trúc căn phòng rất đặc biệt lối vào chỉ vừa một đứa trẻ chui lọt nên có vào được cũng khó mà đưa được cổ thi thể ra ngoài, cách duy nhất là phải phá vỡ cấu trúc của Kim Tự Tháp, vì vậy chúng tôi chưa khai quật thi thể của ngài được.

Chúng tôi nghe vị giáo sư kia nói xong thì đã rõ động cơ của phiến quân nên quyết định hành quân. Không chậm trễ, không chỉ để cứu mạng Johnny, hy vọng cuối cùng của chúng tôi mà còn phải bảo vệ kim tự tháp và thi thể nhà vua.

Chúng tôi thu gom đồ đạt lẻn ra sau viện bảo tàng vượt qua vài con phố rồi đến một miệng cống lớn bên lòng đường. Cái nắp cống rất nặng, dễ đến cả tạ nên chúng tôi vất vả một lúc mới mở ra được, sau khi xuống thì đóng lại và gài một quả mìn phòng khi phải thoát ra thì giật cho nó nổ trèo lên cho nhanh. Cả nhóm ai cũng kinh nghiệm dày dặn, vào sinh ra tử nhiều lần, nhất cử nhất động đều tính toán kỹ lưỡng thành ra tôi cũng yên tâm phần nào.

Ai Cập đang là mùa khô nên trong lòng cống không có nước mấy, chỉ xâm sấp đế giày mà thôi tuy nhiên vẫn trơn trượt và hôi thối. Lòng cống tối đen như mực, vài trăm mét mới có một chút ánh sáng lé loi rọi xuống từ những chiếc lỗ cống. Không khí trong đây tưởng như cô đặc và nặng nề, không chỉ vì mùi hôi mà còn vì sự u tối của nó. Lòng cống vuông vức rộng chừng ba mét cao cũng ba mét, tôi bật đèn nhìn đêm nhưng cũng chỉ quan sát được vài chục mét trước mặt, lòng cống này được đấu nối với nhiều hệ thống cống khác, cứ đi một đoạn lại gặp một ống khác lớn nhỏ khác nhau, nếu không có bản đồ chắc chắn sẽ bị lạc.

Từ đây đến Kim Tự Tháp cũng hơn bốn cây số, thời gian không còn nhiều nên chúng tôi nhanh chân giương súng di chuyển nhanh, đi được một đoạn thì tai họa lúc này mới ập đến. Trong lòng cống ngoài rác rến thì có rất nhiều chuột, ban đầu chỉ có những con nhỏ bằng cổ tay, chúng tôi đi đến đâu thì chúng bỏ chạy toán loạn kêu lít cha lít chít ỏm tỏi tìm chỗ nấp. Nhưng khi chúng tôi vừa đi qua thì bọn chúng lại kéo đàn đàn lũ lũ chạy theo, rồi con nọ gọi con kia và những con chuột lớn hơn xuất hiện, có con to bằng bắp chân rồi bắp đùi, mắt đỏ lè, đầu ngẩn cao đứng bằng hai chân như một con chó.

Tôi nhìn sơ qua cũng biết đám chuột này đã ăn xác người, chắc chắn là bị đột biến nên gọi cả toán cẩn thận, cắt cử hẳn hai người canh chừng phía sau, chỉ cần bọn chúng có ý đồ lập tức nổ súng. Nhưng đây là đất của bọn nó hơn nữa chúng rất tinh ranh, chỉ cần thấy ánh đèn rọi tới hay chúng tôi giương súng lên thì chúng lẩn sạch nhưng vừa quay lưng đi lại túa ra.

Không ai nói ai nhưng chúng tôi biết thừa bọn chúng đang đánh giá tình hình kẻ địch, xem chúng tôi mạnh yếu như thế nào sẽ thừa cơ tấn công nên tiếp tục rút chạy không phải là cách. Tính toán sơ bộ tôi thấy chúng tôi khó lòng mà đối phó với bọn chúng vì có bắn cũng chỉ trúng những con to, đám loắt choắt theo sau kia khó lòng tiêu diệt hết được và hơn nữa chúng tôi không đủ đạn, dùng thuốc nổ cũng không được vì sẽ thu hút sự chú ý ở bên trên còn dùng lựu đạn lửa sẽ đốt sạch khí oxy cả một quảng rộng trong lòng cống khiến cho chúng tôi cũng toi theo. Tính đi tính lại chỉ có nước thả lựu đạn flash và giết những con lớn mới hăm dọa được chúng.

Thời gian không còn nhiều, chúng tôi thả một trái flash vào đám chuột kia rồi lợi dụng lúc bọn chúng còn chưa định thần được chuyện gì liền bắn chết hơn chục con chuột lớn làm chúng kêu toán loạn. Đám chuột vừa bị bắn, bị choáng không còn xác định phương hướng nên chạy toán loạn về cả hướng chúng tôi, trong đó có mấy con lớn lao lên cắn xé như điên dại, để tránh cho đồng đội bị nhiễm bệnh tôi rút dao lao lên trước, thấy con nào bò đến liền tung cước đá nó văng ra xa, còn con nào phóng lên thì dùng dao xiên qua người nó.

Bắn hết cả băng đạn coi bộ tình hình chưa đâu vào đâu nên Chris thả thêm một trái flash rồi gọi cả toan bỏ chạy. Chúng tôi chạy được một đoạn vài trăm mét cũng đã bỏ được lũ chuột ở đằng sau, ai nấy đều đeo theo nhiều vũ trang nên khá mệt, khi dừng lại thì thở lấy thở để.

Nghỉ chưa được một phút chúng tôi chuẩn bị đi tiếp thì đám chuột ở phía sau lại lít cha lít chít chạy tới. Leon thấy vậy bảo chỉ còn nước dùng lựu đạn lửa nên lấy ra một trái rồi dùng dây cao su quấn quanh vài vòng để nó bung ra từ từ câu giờ cho chúng tôi bỏ chạy. Leon ném trái lựu đạn xuống lòng hang xong cả toán lại chạy thục mạng. Lựu bung ra cháy sáng một khoảng rộng chói lòa cả lòng hang nhưng người tính không bằng trời tính, lửa cháy ở dưới lòng cống chỉ làm bọn chuột chùn chân một lúc sau đó chúng nó lại lên leo lên tường và trần hang để vượt qua ngọn lửa chạy về phía chúng tôi.

Cả nhóm lúc này khá bàng hoàng. Không lẽ năm người lính đặc nhiệm ưu tú và cả một kế hoạch của liên quân mấy nước lại bị phá hỏng bởi lũ chuột? Điên tiết tôi lấy một trái mìn định hướng clay more ra định bụng cắm xuống đợi chúng chạy qua cho nổ tan xác rồi còn bao nhiêu sẽ bắn chết nhưng vừa bước đến thì Wings bảo tôi dừng lại.

Súng của Wings có gắn ống nhắm tầm nhiệt nên anh ta nhận ra từ xa xa có một sinh vật còn kinh khủng hơn đang tiến lại. Lũ chuột đích thị là sợ con vật này nên không màng đến chúng tôi mà bỏ chạy thục mạng, mặc kệ chúng tôi đang đứng ngẩn tò te.

Tôi đeo kính nhìn đêm vào thì thấy nơi cuối đường cống một sinh vật xuất hiện, nó có cái đầu như hình tam giác, lưng gù và đầy gai, bề rộng phải gần hai mét và cao mét mấy, từ chi quẫy đạp ì oạp đích thị là loại bò sát. Tôi nuốt nước bọt cái ực quay lại nhìn mọi người thì Jake nói:

- Là cá sấu sông Nile!

Đây loài cá sấu hung dữ và to lớn nhất châu Phi và cũng là loại cá sấu ăn thịt người nhiều nhất trên Thế Giới Con đực trưởng thành có thể nặng vài tấn và dài đến 7 mét và con cá sấu đang mò đến chỗ chúng tôi có khi còn lớn hơn như vậy nữa.

Chẳng phải đợi địch tới gần hay phương án tác chiến gì xấc, Wings nổ súng khơi mào cuộc chiến sau đó chúng tôi liền nã đạn theo. Trong ánh sáng xanh xanh của kính nhìn đêm tôi cũng chẳng biết là viên đạn của mình đi tới đâu, công phá được bao nhiêu chỉ thấy cái khối thịt đen khủng lồ kia phút chốc chùng chân rồi quẫy mạnh lao nhanh về phía chúng tôi.

Đạn vừa hết thì nó chỉ còn cách chúng tôi chừng hai chục mét, thấy con vật không có vẻ gì là yếu đi chúng tôi lại kéo nhau bỏ chạy, đường cống vừa dài vừa rộng, con thú thì to nên chắc chắn không chạy lại nó. Chris ra hiệu cho cả nhóm tản ra chui vào những ngách cống nhỏ hơn lánh tạm.

Con cá sấu bò tới thấy mồn một chúng tôi đã chui vào trong nên ngoác cái mồm tanh hôi với hàm răng lởm chởm của nó ra đớp hú họa phập một cái để đe dọa, tiếp đó nó liền đưa mũi đánh hơi toan tìm đường ăn thịt.

Về phần chúng tôi thì tạm thời chưa nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại bị kẹt trong lòng cống nhỏ , chạy ra thì không được mà chạy vào thì lạc đồng đội nên đành nín thở mà xem con cá sấu này định làm gì.

Con cá sấu vừa đến liền đưa cái mũi đến chỗ tôi đánh hơi, đôi mắt nó sáng quắc, nó chõ cái mõm vào định đớp lấy như chỉ vừa được một đoạn là kẹt nên phải rút ra, bề ngang của lòng cống không đủ để nó trở mình thành ra việc di chuyển của nó khá khó khăn, nó bò tới bò lui có vẻ bất lực còn chúng tôi cũng bất lực không kém.

Tôi chưa biết tiếp theo phải làm gì thì Leon bên kia đã thò đầu ra nổ thêm vài phát súng xem con vật này da dày đến đâu nhưng viên đạn có vào mà không có ra, chỉ để lại một chiếc lỗ trên thân con cá sấu ngoài ra nó chả hề hấn gì, còn nó tất nhiên sau khi ăn thêm vài viên đạn thì lại điên tiết đớp lấy đớp để, chõ mõm vào chỗ này chỗ kia cố để tóm lấy chúng tôi.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro